Thứ Bảy, 28 tháng 6, 2014

BÁO ĐỘNG: PTT Tàu Hoàng Trung Hải lại âm mưu biến Vũng Áng và cảng Sơn Dương thành đặc khu của Trung Quốc!!!

http://www.leanhhung.com/2014/06/bao-ong-ptt-tau-hoang-trung-hai-lai-am.html

BÁO ĐỘNG: PTT Tàu Hoàng Trung Hải lại âm mưu biến Vũng Áng và cảng Sơn Dương thành đặc khu của Trung Quốc!!!

Lê Anh Hùng



Phố Tàu ở Vũng Áng (Ảnh: Pháp luật Tp HCM)
Trong một bài viết trước đây, tác giả bài này đã chỉ rõ PTT Tàu Hoàng Trung Hải chính là người đã “dâng” cho Trung Quốc 33km2 đất (bằng 1,2 lần diện tích Macao) trong khu kinh tế Vũng Áng và cảng nước sâu Sơn Dương, núp dưới chiêu bài cấp đất dự án cho tập đoàn Formosa Đài Loan.
Mới đây, tập đoàn Formosa lại gửi công văn cho đích danh Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải, trong đó họ đưa ra đề xuất thành lập đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng (bao gồm cả cảng nước sâu Sơn Dương) trực thuộc Văn phòng Chính phủ, tức là thuộc quyền chỉ đạo, giám sát của chính ngài PTT Tàu “phụ trách kinh tế” này. 

TBKTSG Online | 25.6.2015 -- Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Formosa Hà Tĩnh) vừa có những yêu cầu gởi lên Chính phủ vượt quá khuôn khổ luật pháp và chính sách ưu đãi hiện hành mà bình thường có lẽ không doanh nghiệp nào nghĩ tới.
Đó là đề xuất thành lập đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng và trong đặc khu thành lập ban quản lí, trực thuộc Văn phòng Chính phủ, theo tin từ báo Hải quan. Trong công văn số 1406022/CV-FHS gởi Phó Thủ tướng Chính phủ Hoàng Trung Hải, Formosa đưa ra đề xuất thành lập đặc khu kinh tế gang thép Vũng Áng nhằm xây dựng cảng nước sâu Sơn Dương và đầu tư các ngành công nghiệp liên quan như gang thép, điện....
Với đặc khu này, Formosa đề xuất một loạt biện pháp ưu đãi như được Chính phủ thiết lập cơ chế bảo hộ ngành thép, được Chính phủ ưu đãi cân đối ngoại tệ trong phạm vi hạng mục kinh doanh, được vay vốn từ các tổ chức tài chính nước ngoài, được miễn thu thuế khấu trừ tại nguồn..., miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu...
Cũng theo báo Hải quan, một trong những đề xuất mang tính ưu đãi như thế là “đề nghị được cắt đất để bán lâu dài cho nhân viên” mà Formosa dự kiến số lượng nhân viên cao nhất đạt 15.000 người, nếu tính cả thân nhân của họ là khoảng 60.000 người như một thị trấn gần đặc khu.
Dự án Khu liên hợp gang thép Formosa đang được triển khai xây dựng và dự kiến bắt đầu vận hành giai đoạn 1 vào năm 2015 với tổng công suất khoảng 22,5 triệu tấn thép/năm.

Công văn này đã mở đường cho người Trung Quốc tràn vào chiếm cứ Vũng Áng, Kỳ Anh.


Ngày 23.5.2014, xử lý kiến nghị của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS) qua Công văn số 1405069/CV-FHS, PTT Tàu Hoàng Trung Hải đã chỉ đạo: "Về vấn đề thành lập Khu kinh tế đặc thù riêng cho dự án FHS, giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan và UBND tỉnh Hà Tĩnh nghiên cứu, xử lý và trả lời Công ty." Đặc biệt, công văn đóng dấu hoả tốc của Văn phòng Chính phủ này lại được ban hành chỉ 2 ngày sau khi FHS phát công văn đề nghị. Điều này cho thấy sự quan tâm vô cùng đặc biệt mà ngài Phó Thủ tướng Tàu khựa dành cho dự án Formosa. (Ngày 21.5, đích thân ngài PTT đã dẫn đầu đoàn công tác của chính phủ đến Vũng Áng thăm và chỉ đạo khắc phục hậu quả cho Cty Formosa sau vụ bạo động hôm 14.5, vụ việc mà hầu như ai cũng thấy là có sự giật dây và nhắm mắt làm ngơ của chính quyền. Lưu ý: Công văn đề xuất thành lập đặc khu trực thuộc Văn phòng Chính phủ của FHS là Công văn số 1406022/CV-FHS, phát hành sau Công văn 1405069/CV-FHS.)


Đề nghị thành lập đặc khu này là diễn biến mới nhất trong âm mưu nham hiểm của Trung Nam Hải mà nhiều người đã lên tiếng cảnh báo từ lâu: biến khu vực này thành một căn cứ quân sự hết sức lợi hại, sẵn sàng chia cắt Việt Nam trên bộ (ngay dưới chân dãy Hoành Sơn) và trên biển (từ cảng Sơn Dương, một cảng kín sóng gió và đạt độ sâu đến trên -16m cùng với vùng nước rộng rãi, Trung Quốc sẽ dễ dàng kiểm soát được đường biển từ Nam Bộ và Trung Bộ tiếp tế cho miền Bắc Việt Nam).

HÃY CHẶN NGAY BÀN TAY TỘI ÁC CỦA PTT HÁN TẶC HOÀNG TRUNG HẢI ĐỂ CỨU LẤY ĐẤT NƯỚC NÀY!!!
  • Mời quý độc giả xem thêm loạt bài vạch trần bộ mặt thật của ngài PTT Tàu Hoàng Trung Hải trên website của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA):
  1. PTT Hoàng Trung Hải và ngành khai khoáng của Việt Nam (VOA)
  2. Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị (VOA)
  3. Hiểm họa Trung Quốc và bài học từ Tiệp Khắc, Ukraina (VOA)
  4. Lào Cai: ‘Tử huyệt’ của phòng tuyến biên giới phía bắc? (VOA)
  5. Trục đường cửa ngõ chiến lược Móng Cái-Hạ Long sẽ rơi vào vòng kiểm soát của Trung Quốc? (VOA)
  6. PTT Hoàng Trung Hải - hiểm họa đằng sau những trò mị dân (VOA)

VAI TRÒ NỔI BẬT CỦA PTT HÁN TẶC HOÀNG TRUNG HẢI Ở BIỂN ĐÔNG

http://www.leanhhung.com/2014/06/vai-tro-noi-bat-cua-ptt-han-tac-hoang.html

VAI TRÒ NỔI BẬT CỦA PTT HÁN TẶC HOÀNG TRUNG HẢI Ở BIỂN ĐÔNG

Lê Anh Hùng
Ngoài chức trách “phó thủ tướng phụ trách kinh tế”, góp phần quyết định khiến nền kinh tế Việt Nam ngày càng trì trệ và lệ thuộc sâu sắc vào Trung Quốc, đ/c PTT Hán tặc Hoàng Trung Hải còn là nhân vật nắm nhiều “quyền sinh quyền sát” về Biển Đông nhất trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam suốt nhiều năm qua. 
Cụ thể, kể từ khi được đ/c X đặt vào chiếc ghế quan trọng thứ hai trong chính phủ ngày 2.8.2007, đ/c PTT Hán tặc được giao phụ trách những lĩnh vực liên quan đến Biển Đông như sau:

  1. Tổng cục Biển và Hải đảo: Tổng cục này trực thuộc Bộ Tài nguyên – Môi trường mà bộ này lại thuộc quyền chỉ đạo trực tiếp của PTT Hán tặc Hoàng Trung Hải (theo Quyết định số 1476/QĐ-TTg ngày 25/8/2011 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng);
  2. Tổng cục Thuỷ sản: Đây là tổng cục trực thuộc Bộ NN&PTNT, bộ này lại thuộc quyền chỉ đạo của đ/c Hán tặc Hoàng Trung Hải;
  3. Lực lượng Kiểm ngư: Lực lượng này trực thuộc Bộ NN&PTNT, bộ này lại thuộc quyền chỉ đạo của đ/c PTT Hán tặc Hoàng Trung Hải (đ/c ấy đã phát biểu chỉ đạo tại lễ ra mắt lực lượng kiểm ngư vào ngày 15.4.2014);
  4. Uỷ ban Tìm kiếm Cứu nạn Quốc gia: Địa bàn chính của lực lượng này là Biển Đông, trong khi Chủ tịch Uỷ ban là đ/c PTT Hán tặc Hoàng Trung Hải. Chính đ/c PTT Hán tặc này là người đã trực tiếp chỉ đạo chiến dịch tìm kiếm chiếc máy bay MH-370 (đa số hành khách là người Trung Quốc) của hãng hàng không Malaysia Airlines hồi tháng Ba vừa qua một cách rầm rộ và tốn kém;
  5. Cảnh sát biển Việt Nam: Lực lượng này cũng chịu sự quản lý, điều động của Uỷ ban Tìm kiếm Cứu nạn Quốc gia, Uỷ ban mà đ/c PTT Hán tặc là Chủ tịch;
  6. Công nghiệp đóng tàu: Ngành này thuộc quyền chỉ đạo, giám sát của ngài Phó Thủ tướng “phụ trách kinh tế” Hoàng Trung Hải; Bộ Công Thương, cơ quan chủ quản của Vinashin, là bộ thuộc quyền quản lý của đ/c PTT Hán tặc;
  7. Công nghiệp dầu khí: Đ/c PTT Hán tặc là Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước các dự án trọng điểm về dầu khí (chưa kể Petro Vietnam còn trực thuộc Bộ Công Thương mà bộ này lại thuộc quyền chỉ đạo trực tiếp của đ/c PTT Hán tặc);
  8. Vận tải biển: Một ngành thuộc Bộ Giao thông – Vận tải và Bộ này lại thuộc quyền quản lý của đ/c PTT Hán tặc;
  9. Phòng chống bão lụt: Biển Đông là mặt trận chính của công tác phòng chống bão lụt và đ/c PTT Hán tặc được Thủ tướng giao thay mặt mình phụ trách lĩnh vực này.
KẾT LUẬN: Với vai trò nổi bật của đ/c PTT Hán tặc Hoàng Trung Hải ở Biển Đông như thế, với thái độ im lặng hèn nhát và vô trách nhiệm của cả những người hữu trách trong bộ máy lẫn những người có tiếng nói trong xã hội suốt nhiều năm qua về “con ngựa thành Tơ-roa” này, Biển Đông không dần dần mất vào tay Trung Quốc mới là lạ.

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2014

Người giữ nước - kẻ bán nước

http://danlambaovn.blogspot.com/2014/06/nguoi-giu-nuoc-ke-ban-nuoc.html

Người giữ nước - kẻ bán nước

(Click vào ảnh để xem rõ hơn)

Bạn đọc Danlambao - Ảnh trái là sắc lệnh 174-NV do cố Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, ông Ngô Đình Diệm ký ngày 13/7/1961 nêu rõ: "đặt quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam và thành lập tại quần đảo này một xã lấy danh hiệu là xã Định Hải trực thuộc quận Hòa Vang".
Ảnh bên phải là bức công hàm của cố thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ông Phạm Văn Đồng ký ngày 14/9/1958, ghi: "Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý của Trung Quốc""Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc".
Không cần phải phân tích dông dài, chỉ cần đọc và so sánh 2 văn bản trên, một người dân lao động ít học như tôi cũng đủ thấy rõ ai là kẻ bán nước, ai là người giữ nước.
Một chế độ yêu nước và giữ nước như Việt Nam Cộng Hòa dứt khoát không thể là 'ngụy', tôi gọi đó là Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Một chế độ bán nước như Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa dứt khoát là ngụy, tôi gọi đó là bọn ngụy quyền cộng sản Ba Đình hay tập đoàn tà quyền Việt gian bán nước.

Xin hãy mở to mắt

http://www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_HayMoToMat.htm

Xin hãy mở to mắt
 
Nguyễn Trung
 
         
          Tiếp theo những sự kiện gây hấn liên tục từ mấy năm nay ở Hoa Đông và khu vực bãi san hô Scarbourough, sự kiện giàn khoan HD 981 và việc Trung Quốc đang ráo riết xây dựng các căn cứ nổi tại các bãi đá Gạc Ma, Chữ Thập thuộc nhóm các đảo Trường Sa của Việt Nam (Trung Quốc đánh chiếm năm 1988) đánh đi một tín hiệu báo động với các nước trong khu vực và cả thế giới: Trung Quốc đang bước vào thời kỳ thực hiện quyết liệt khát vọng bá chiếm Biển Đông, với mục tiêu trước mắt trở thành đế chế đại dương.
 
          Toàn bộ bước đi nói trên của Trung Quốc mở đầu một giai đoạn mới của quá trình thực hiện khát vọng trở thành siêu cường vào khoảng giữa thế kỷ này. Với những tính toán dựa trên thực tế là cục diện quốc tế sau chiến tranh Iraq (2003 -2010) đã chuyển sang thế giới đa cực với nhiều diễn biến mới phức tạp, Trung Quốc trong nhiệm kỳ Hồ Cẩm Đào (khóa 17 của ĐCSTQ 2007 - 2012) đã chủ trương kết thúc thời kỳ giấu mình chờ thời , để chuyển sang thời kỳ thể hiện sức mạnh thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”, với những bước đi cứng rắn được xác định tại đại hội 18 của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thời Tập Cận Bình.
 
          Trên thế giới sau chiến tranh Iraq (2003 – 2010), nước Mỹ thời Obama từ nhiệm kỳ I đã chuyển mạnh sang quan điểm chiến lược san sẻ trách nhiệm giữa các đồng minh trong những vấn đề quốc tế và đề ra chiến lược trục xoay về Châu Á – Thái Bình Dương để đối phó với sự lấn át ngày càng leo thang của Trung Quốc đang uy hiếp các nước láng giềng trong khu vực. Trong bối cảnh tình hình rất phức tạp ở Ukraina, việc Nga sáp nhập Crimea (04-2014) là bước mở đường đưa đế chế Nga trở lại chính trường quốc tế. Đồng thời với sự kiện Crimea, hợp tác Nga – Trung qua chuyến đi Trung Quốc của Putin tháng 05-2014 đã tạo ra một dạng tập hợp lực lượng mới đối phó lẫn nhau giữa các “cực” lớn trên thế giới. Động thái này mang lại nhiều lợi thế mới cho Trung Quốc để (a) khai thác những cơ hội mới đang đến, và (b) để phát huy lợi thế tương đối do sức mạnh áp đảo tại chỗ trong khu vực Đông Nam Á.
 
          Cũng khoảng một thập kỷ nay các nước phương Tây nói chung đang phải trải qua một thời kỳ thay đổi quyết liệt cấu trúc kinh tế, phải xử lý nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế nói chung và trong những biến động mới của địa kinh tế và địa chính trị của cục diện quốc tế hôm nay nói riêng. Nói một cách đơn giản, Mỹ và các nước phương Tây đang ở trong thời kỳ rất bận rộn với chính bản thân mình. Trong khi đó sự phụ thuốc lẫn nhau ở phạm vi toàn cầu ngày càng phức tạp hơn, xử lý vấn đề nào cũng vướng phải tình trạng rút dây động rừng (dẫn chứng rõ nét nhất là Mỹ và phương Tây có nhiều lợi ích đối kháng với lợi ích của Nga và Trung Quốc, nhưng sự phụ thuộc lẫn nhau – nhất là trong kinh tế - giữa tất cả các đối thủ này vẫn ngày càng lớn). Trung Quốc bất chấp đạo lý và luật pháp quốc tế, cũng không quan tâm đến trách nhiêm là nước lớn, luôn luôn theo đuổi cách hành xử “mục tiêu biện minh cho biện pháp”, do đó đang khai thác tốt nhất những rối ren trên thế giới.
         
Mấy tháng gần đây lại nổi lên thánh chiến của lực lượng Nhà nước Hồi giáo và Cận Ðông (ISIL) có mối liên hệ mật thiết với mạng lưới al-Qaeda và Taliban. Diễn biến mới này chẳng những có nguy cơ nhấn chìm Iraq trong nội chiến, mà đang cùng với những biến động phức tạp ở Ai-cập và Syrie có thể đảo ngược tình hình toàn khu vực Trung Đông với những hệ quả khó đoán trước. Mỹ và phương Tây đang rất lúng túng. Tình hình nghiêm trọng đến mức Iran – vốn là “kẻ thù nguy hiểm” của Mỹ và Iraq – đã tuyên bố sẵn sàng hợp tác với Mỹ và Iraq trong việc đẩy lùi phiến quân thánh chiến ISIL, kể cả việc đưa quân vào Iraq. Đương nhiên, những diễn biến mới này đang tạo ra tình hình “đục nước béo cò” cho các đối thủ ngoài cuộc.
 
          “Con cò ngoài cuộc” lớn nhất hiện nay đang là Trung Quốc.
 
Nhờ vào tận dụng các lợi thế riêng và triệt để khai thác quá trình toàn cầu hóa, kinh tế Trung Quốc dù nhiều khuyết tật thế nào đi nữa vẫn đang có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong số tất cả các cường quốc, có khả năng trở thành nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất hành tinh vào giữa thế kỷ 21, vô luận cái giá nhân dân Trung Quốc và các nền kinh tế khác phải trả như thế nào cho sự phát triển này. Với dự trữ ngoại tệ hiện nay khoảng 4000 – 4500 tỷ USD (lớn nhất thế giới, gấp khoảng 20 lần của Mỹ, khoảng gấp 3 Nhật, gấp 4 khối EU…), với ngân sách quốc phòng từ hơn một thập kỷ nay tăng 2 con số, Trung Quốc đang tạo ra cho mình một lực lượng quân sự có thế mạnh áp đảo tại chỗ so với các nước trong khu vực Đông Nam Á.
 
Cục diện quốc tế nói trên, bối cảnh cụ thể của khu vực Đông Nam Á hiện nay, và đòi hỏi bên trong cùng với tiềm lực Trung Quốc đã tích tục được, đấy là ba nguyên nhân chủ yếu dẫn tới kết thúc thủ đoạn giấu mình chờ thời , để từ những năm gần đây chuyển hẳn sang giai đoạn mới của chiến lược bá chiếm Biển Đông.
 
Cái nền làm cơ sở cho quyết định của Trung Quốc trên Biển Đông cho thấy:
 
(a) sự kiện giàn khoan HD 981 là một bước đi có tính toán kỹ lưỡng trong toàn bộ chiến lược lớn của Trung Quốc, cố khai thác tối đa những diễn biến mới trong cục diện đa cực rất phức tạp của bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay;
(b) sự kiện giàn khoan HD 981 cùng với việc ráo riết xúc tiến xây dựng các căn cứ quân sự nổi ở Gạc Ma và Chữ Thập nằm trong tổng thể ý đồ chiến lược mở ra thời kỳ mới quyết liệt giành bá quyền trên Biển Đông;
(c)  các lý do (a) và (b) nêu trên cho thấy sự kiện giàn khoan HD 981 không phải là một hành động đơn lẻ của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền và lãnh hải chống Việt Nam, mà là một hành động mang tính chất xâm lược, nằm trong tổng thế chiến lược bá chiếm Biển Đông;
(d) việc Trung Quốc khăng khăng cự tuyệt đối thoại với Việt Nam để giải quyết hòa bình sự kiện giàn khoan HD 981, xuyên tạc trắng trợn sự thật để chủ động tố cáo Việt Nam về sự kiện này tại Liên Hiệp Quốc, ráo riết thực hiện những thủ đoạn ngoại giao hung hăng khác trên các diễn đàn quốc tế (gần đây nhất là diễn đàn Shangri La 13) cho thấy Trung Quốc đã chủ động vứt bỏ 4 tốt và 16 chữ trong quan hệ với Việt Nam – vì đã sử dụng xong rồi
 
Đến đây có thể rút ra nhận định: Cùng với việc mở đầu thời kỳ quyết liệt thực hiện khát vọng bá chiếm Biển Đông, Trung Quốc còn chủ động tạo ra những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam. Liên quan đến sự kiện giàn khoan HD 981, có thể xem việc kích động bạo loạn trong những ngày 13 và 14-05-2014 cướp phá khoảng 800 xí nghiệp của Việt Nam có FDI tại 22 địa phương, gây cho phía Việt Nam nhiều thiệt hại rất lớn về kinh tế và chính trị là dẫn chứng mới nhất của những yếu tố đối kháng này trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Việt Nam. Hiển nhiên Trung Quốc đã chuyển quan hệ song phương giữa hai nước sang một thời kỳ quyết liệt mới.
 
 
Trong khi đó nước ta như thế nào và đang đứng ở đâu?
 
Bước vào năm độc lập thống nhất đất nước thứ 40, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của Việt Nam đã tạo ra những bước phát triển ban đầu, với kết quả trở thành nước có thu nhập trung bình – đúng ra phải nói là nước có thu nhập trung bình thấp. Nhưng tình hình cho thấy mặc dù sự nghiệp công nghiệp hóa của Việt Nam trong 3 thập kỷ vừa qua đã huy động được một nguồn lực có mọi nguồn gốc khác nhau lớn khoảng gấp đôi của Hàn Quốc cho thời kỳ này (cũng khoảng 3 thập kỷ: 1960 – 1990), nhưng Việt Nam không thể hoàn thành công nghiệp hóa vào năm 2020. Hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nghèo, năng suất lao động thấp nhất trong khu vực, từ năm 2007 bước vào cuộc khủng hoảng cơ cấu kinh tế rất trầm trọng, nợ nần lớn, hiện nay vẫn đang tìm đường ra.
Trong khi đó chế độ chính trị định hướng xã hội chủ nghĩa do ĐCSVN xây dựng lên cho đất nước độc lập thống nhất hiện nay đã bị tha hóa của quyền lực biến thành chế độ toàn trị: Đảng đứng trên nhà nước và pháp quyền, ngăn cấm tự do tư duy, tước đoạt nhiều quyền của công dân đã ghi trong hiến pháp, quan liêu và tham nhũng nặng nề… Thể chế chính trị hiện nay có nhiều bất công xã hội gay gắt, trấn áp dân tùy tiện, nền giáo dục bị khủng hoảng trầm trọng, tệ nạn xã hội tràn lan. Một chế độ chính trị như vậy cùng với thực trạng kinh tế - văn hóa – xã hội của đất nước hiện nay có nhiều mặt xuống cấp nguy hiểm, phải nói về thực chất đã và đang hình thành lên ở nước ta một ách nô dịch mới, kìm hãm sự phát triển của đất nước.
Có thể nhận định: Thực hiện đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước theo ý thức hệ định hướng xã hội chủ nghĩa của ĐCSVN, Việt Nam đã kết thúc một giai đoạn phát triển thất bại (1975 – 2014). Nét nổi bật nhất của thất bại này là các thành tựu đạt được rất thấp so với (a) vốn, công sức và thời gian đã bỏ ra, (b) so với tài nguyên thiên nhiên và môi trường tự nhiên đã bị lấy đi, (c) so với cơ hội đất nước có được trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, (d) so với mức sống, hạnh phúc và các phúc lợi xã hội cũng như so với các quyền tự do dân chủ người dân lẽ ra phải được hưởng.
Sau 40 năm phát triển đầu tiên thời độc lập thống nhất, đến hôm nay Việt Nam chỉ có được một nền kinh tế với cơ cấu lạc hậu, kết cấu hạ tầng kém phát triển, chất lượng nguồn nhân lực thấp, năng lực cạnh tranh và hội nhập kinh tế vốn đã thấp lại  đang giảm sút. Trong khi đó thể chế chính trị quá yếu kém và có nhiều bất cập. Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi sống còn phải chuyển sang một thời kỳ phát triển kinh tế bền vững và phải có một thể chế chính trị pháp quyền dân chủ bảo đảm tạo ra bước phát triển mới này của đất nước.
Yếu kém về kinh tế và yếu kém của thể chế chính trị 40 năm qua không những lấy đi nhiều cơ hội phát triển của Việt Nam, mà còn khiến cho Việt Nam chỉ giành được vị trí quốc tế thấp và không phát huy được vai trò cần phải có của mình trong quan hệ quốc tế. Thực tế này giảm thiểu đáng kể khả năng phát triển, khả năng hội nhập và khả năng bảo vệ lợi ích của đất nước.
Đặc biệt đường lối gìn giữ quan hệ đại cục với Trung Quốc trên cơ sở ý thức hệ mang lại cho đất nước sự lệ thuộc toàn diện rất nghiêm trọng, tạo ra sự can thiệp nguy hiểm của quyền lực mềm Trung Quốc vào đời sống mọi mặt của đất nước, kìm hãm sự phát triển của đất nước như một chư hầu kiểu mới của Trung Quốc. Thực tế cho thấy Việt Nam càng kiên trì giữ “đại cục”, Trung Quốc càng lấn tới, 4 tốt và 16 chữ vàng chỉ là chuyện lừa bịp. Việc Trung Quốc tự tay vứt bỏ 4 tốt và 16 chữ chứng minh sự phá sản của các mối quan hệ giữa hai đảng (ĐCSVN & ĐCSTQ) và hai nước (VN & TQ) dựa trên ý thức hệ. Thực ra đó chỉ là sự phá sản ý thức hệ của ĐCSVN, sự phá sản của những ảo tưởng của ĐCSVN về Trung Quốc. Bởi vì trên thực tế từ hơn nửa thế kỷ nay ĐCSTQ chỉ có ý thức hệ siêu cường Đại Hán dưới cái tên gọi là CNXH đặc sắc Trung Quốc. Hiện nay tự tay Trung Quốc còn đang gây ra những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam.
 
Toàn bộ những vấn đề trình bầy trên cho thấy:
1)   Từ một thập kỷ nay thế giới đã chuyển sang cục diện đa cực với nhiều diễn biến rất phức tạp tác động đến mọi quốc gia, đòi hỏi mọi quốc gia phải thay đổi để đối phó; Trung Quốc đang ra sức khai thác tình hình này.
2)   Từ những năm gần đây Trung Quốc đã thực sự bước vào thời kỳ quyết liệt thực hiện khát vọng bá chiếm Biển Đông, thách thức trực tiếp độc lập và chủ quyền của Việt Nam, tích tụ những yếu tố đối kháng mới trong quan hệ với Việt Nam, tiếp tục siết chặt hơn nữa sự lệ thuộc của Việt Nam để lũng đoạn.
3)   Đường lối xây dựng và bảo vệ đất nước 40 năm qua theo định hướng xã hội chủ nghĩa của ĐCSVN cơ bản là thất bại, đòi hỏi Việt Nam bắt buộc phải chuyển sang một thời kỳ phát triển bền vững và phải có một thể chế chính trị phát huy được quyền làm chủ của nhân dân để hoàn thành nhiệm vụ này.
4)   Cục diện mới hiện nay của thế giới và trong khu vực đang đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức mới – nhất là trong mối quan hệ song phương Việt – Trung. Thực tế khách quan này càng đòi hỏi: Để thành công trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của mình, Việt Nam nhất thiết phải tạo ra cho mình sự phát triển bền vững với một thể chế chính trị phải có cho một quốc gia độc lập do nhân dân làm chủ.
Đấy là bốn vấn đề sống còn đặt ra cho đất nước ta hôm nay.
Tựu trung lại (a) đất nước ta đang sống trong một thế giới có những thay đổi và thách thức rất gay gắt của cục diện đa cực, (b) phải đối phó với một Trung Quốc bước vào thời kỳ mới quyết liệt bá chiếm Biển Đông, (c) bản thân nước ta cũng đang đòi hỏi phải có sự thay đổi triệt để để phát triển. Do đó có thể kết luận:
Đất nước ta dứt khoát phải thoát ra khỏi sự kìm kẹp của ý thức hệ, vươn lên tự do dân chủ, để tìm đường đi vào một thời kỳ phát triển mới trong một thế giới đã chuyển giai đoạn và trong tình hình Trung Quốc đang đặt nước ta trước những thách thức mới.
Cho phép tôi kêu gọi: Hễ là người Việt Nam, xin mỗi chúng ta hãy mở to mắt nhìn thẳng vào bốn vấn đề sống còn như vậy đang đặt ra cho đất nước hôm nay, đòi hỏi đất nước ta phải thay đổi toàn diện để giải quyết thành công.
Nhìn thẳng vào những đòi hỏi khách quan và tất yếu như thế đang đặt ra cho đất nước, hy vọng mỗi chúng ta sẽ quyết định được hành động của mình: Việt Nam nhất thiết phải thay đổi, sống hay là chết!

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 15-6-14

Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Sách “Nỗi Hối Hận Lúc Hoàng Hôn”

http://www.danchimviet.info/archives/78442/sach-noi-hoi-han-luc-hoang-hon/2013/08

Sách “Nỗi Hối Hận Lúc Hoàng Hôn”

Trần Đức Thảo
Trần Đức Thảo
Sách do tác giả Tri Vũ – Hoàng Ngọc Khuê xuất bản tháng 10.2012 tại Pháp. Nội dung viết về ông Trần đức Thảo, sinh năm 1917, giáo sư thạc sĩ dạy môn triết trong ngành đại học tại Paris, một nhà nghiên cứu uyên thâm về tư tưởng Marx, từng tranh luận với đại triết gia Jean-Paul Sartre. Sách cũng ghi lại những kinh nghiệm và nhận xét của ông trong 40 năm sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Năm 1952, Giáo sư Thảo, được sự hỗ trợ của đảng cộng sản Pháp, trở về nước với hoài bão phục vụ cách mạng. Ông đi theo ngõ đường sắt xuyên Á, qua đất Trung Hoa, để đến chiến khu Việt Bắc. Sự việc đầu tiên làm ông suy nghĩ, khi cán bộ ở biên giới buộc ông làm tờ khai lý lịch, với yêu cầu lên án ông bà, cha mẹ có liên hệ với phong kiến và thực dân. Ông bác bỏ ý kiến này, để tôn trong sự thật. Vụ này được báo cáo về trung ương. Ông đã vài lần gặp ông Hồ, thấy chủ tịch tỏ thái độ xa cách. Dù nhiệt thành yêu nước, nhưng vì ông chủ trương một cuộc cách mạng đi đến dân chủ và trọng đạo lý, giải phóng con người, nên bị liệt vào thành phần « có vấn đề ». Do đó, ông không đươc giao nhiệm vụ gì cả, có lúc đi dạy hoc, một thời đươc giao việc chăn bò ở Ba Vì, rồi lâm cảnh khó khăn do thất nghiệp, vợ ly dị đi lấy chồng khác (bác sĩ Nguyễn khắc Viện).
Năm 1954, sau hiệp định Genève, ông trở về Hà nội, trải qua những ngày sống trong cảnh xã hội mới quá thê thảm. Hà thành ngày trước văn minh, thanh lịch nay không còn, kể cả tiếng nói, nhường chỗ cho dân từ các nơi khác đến, quê mùa, tục tằn, thô lỗ. Ông được tham gia một chuyến đi về huyện Chiêm Hóa, để vận động các bần cố nông đấu tố địa chủ, đã chứng kiến vụ những dân làng bị đánh đập dã man, rồi đem ra xử bắn, trước sư hiện diện của cố vấn Trung quốc (chiến dịch cải cách ruộng đất do các cán bộ Tàu chỉ huy). Ông Thảo bị xúc động mạnh, đòi các cố vấn này giải thích về căn bản pháp lý của tỷ số giết người ấn định 5%. Các cố vấn này bèn lập phiên tòa, định đưa Gs.Thảo ra xét, rồi xử bắn về tội phản cách mạng. Sau cùng, chuyện được hoãn lại.
Năm 1987, Gs.Thảo được phép vô Sài Gòn, nhìn thấy một thành phố khác xa Hà Nội, không đói rách như đã nghe, găp nhiều cựu kháng chiến Miền Nam, nghe tâm sự của những người nay bị gạt ra bên lề, và được họ quý trọng. Ông viết cuốn sách ngắn tựa đề « Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người », được tái bản. Hà Nội ra lệnh tịch thu, nhưng sách đã bán sạch. Nhiều người khuyên ông nên đi Pháp, để bảo toàn mạng sống.
Năm 1991, ông trở qua Pháp, vui mừng gặp lại các bạn hữu, đồng thời bị tòa đại sứ VN ở Paris theo dõi, gây khó khăn, hăm dọa, ngăn chặn không cho ông diễn thuyết ờ Nhà Việt Nam. Ông cho biết, ông Hồ không mấy quan tâm về lý thuyết của Marx, chỉ làm theo Lénine, Staline, và nhất là Mao. Gs. Thảo đánh giá lại học thuyết của Marx, với kết luận : Marx đã sai lầm.
Vào lúc xế chiều của cuộc đời, Gs.Thảo tỏ ý hối hận, trong bao năm qua đã giữ thái độ im lặng, tức đồng lõa với những kẻ gây tội ác. Ông dự tính ra cuốn sách, chưa thực hiện thì đột ngột từ trần năm 1993, sau một cơn đau bụng dữ dội, điều khó hiểu. Hũ tro của ông đươc gởi về Hà Nội, nhưng không được ai nhận. Cuối cùng, bà vợ cũ đứng ra lo việc mai táng. Chính quyền Hà Nội đã truy tặng ông huân chương Độc Lập và Giải Thưởng Hồ chí Minh !
Trích đoạn phần G.s Thảo trình bày về một số vấn đề:
Định kiến với triết học sách vở.
Những trí thức yêu nước từ xa, cứ vô tư ca ngợi vinh quang, cứ khơi khơi rao giảng hận thù nên khép lại, cái gì của quá khứ thì trả lại cho quá khứ, để cùng nhau xây dựng tương lai, với tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc. Họ mỉa mai chê bai, chẳng lẽ cứ chống cộng đến chiều ? Những lời lẽ hô hào lãng mạn đẹp đẽ và vô tư ấy đã được phát ngôn quá dễ dàng, chỉ vì người nói câu ấy đã không thấy, không hiểu thấu được những cái tuy thuộc về quá khứ, nhưng nó đang vẫn còn tác yêu tác quái trong hiện tại. Làm sao có thể hòa giải, hòa hợp giữa bầy cừu và bầy sói. Giữa kẻ bị trị với kẻ thống trị ? Giữa những kẻ vẫn hờm nhau như kẻ thù ? Do đó, công cuộc tranh đấu tìm đòi tự do dân chủ cho quê hương không thể ngừng lai. Bởi công cuộc tranh đấu chống lại bạo luật của rừng rú không phải là nghĩa vụ của riêng quá khứ.
Không được trải nghiệm tới từng hơi thở từng thớ thịt của thân xác, những nỗi đau đớn của dân tộc, thì khó mà thấy, mà hiểu dù mỗi hoàn cảnh con người đau khổ. Cuộc tranh đấu của Mahatma Gandhi và cách tranh đấu của chủ tịch Hồ chí Minh dĩ nhiên là khác nhau, rất khác nhau. Khác nhau ở cách cảm thấy nỗi đau hay cách suy tư về nỗi đau, mà khác cả về hệ quả tốn ít hay nhiều xương máu, về mức độ tha hóa, băng hoại lương tri con người qua những tranh đấu ấy… »
Tiếp cận thực tại tàn nhẫn.
Sự bế tắc của cách mạng là do ý thức giải phóng con người bằng đấu tranh giai cấp để xóa bỏ giai cấp. Đây là một mô hình cách mạng không tưởng, không nền tảng duy vật sử quan. Không tưởng vì cả tin vào sự đam mê cuồng tín, cả tin vào khả năng giải phóng bằng bạo lực của hận thù. Sự bế tắc ấy là do ý thức, do thái độ cảnh giác, do chính sách thù hận mù quáng của quyền lực chuyên chính. Sự chuyên chính ấy đã đóng kín mọi chân trời, đã không ngừng đẩy những con người chân thật, không chấp nhận dối trá, sang phía thù địch. Giá trị một ý thức hệ không thể so sánh với mạng sống của con người, nhất là với con người bị oan ức, con người trù dập, bị bóc lột, hoàn toàn bất lực, vô phương tự vệ. Một ý thức hệ, dù thế nào thì nó chỉ có giá trị của một dụng cụ. Một dụng cụ làm sao có thể so sánh với giá trị của một mạng sống ? vì vậy, không thể hy sinh con người cho bất cứ một ý thức hệ nào. Trước nỗi đau của con người tuyệt vọng vì ý thức hệ, thì chính cái ý thức hệ ấy cũng cần phải được rà xét lại, để cải đổi hoặc đào thải. Chính những sai lầm cơ bản về tư duy đã đưa tới những hành động gây đau khổ cho con người.
Tư duy theo quy luật phủ định của phủ định là phương pháp gạn lọc những kinh nghiệm, những hành động trong sự vận động của cách mạng trong thời gian. Việc vừa làm xong, vừa thực hiện được thì không nên coi nó như đã vĩnh viễn hoàn hảo. Phải coi việc đó, cách làm đó là còn có thể cải thiện. bằng cách chỉ giữ lại những gì tốt, và loại bỏ ngay những gì coi là xấu. Nhờ sự cải thiện thường xuyên ấy, tức là từng bước phủ định phần xấu mà ta vừa làm, để ta có một cái gì mới tốt hơn cái đã đạt. Như vậy là ta luôn luôn phải phủ định một phần những gì đã làm để đạt tới cái mới ngày càng tốt hơn, ngày càng sáng sủa, ít xấu hơn.
Quy luật phủ định của phủ định đòi hỏi sự vận hành cách mạng không được ngưng lại ở một chính sách, hoặc ở một tổ chức, một cơ chế vĩnh viễn nào cả. Không có cái gì cứ đứng yên một chỗ, bất biến, cố định trong thời gian. Điều này thật quan trọng đối với từng cá nhân, nhưng nó càng quan trọng đối với một chính sách của đảng, của nhà nước.
Những hành động do thù hận không thể nào đưa tới thành công. Tại vì thù hận là tố chất tâm lý bệnh hoạn rất truyền nhiễm, rất độc hại. Nó đưa tới trình trạng mù quáng trong nhận định, nó dẹp bỏ lương tri, nó mở đường hành động cho mọi thủ đoạn gian xảo và tội ác, nó tạo ra nguyên tắc cứu cánh biện minh cho phương tiện. Nguồn gốc của thù hận trong xã hội ta ngày nay là do tình trạng đất nước ta đã một thời bị chìm đắm trong bầu không khí cuồng tín, vì lãnh thổ bị chia cắt thành hai chế độ với hai lá cờ, với lời thề quyết tiêu diệt nhau để thống nhất lãnh thổ.
Cảnh giác với hiện tại sống động.
Do khái niệm về mặt tâm lý và xã hội, danh dự là một thuộc tính được ban tặng cho con người từ bên ngoài, nghĩa là một giá trị do người đời khen tặng, chứ bản thân không thể trực tiếp đi tìm mà lấy được. Danh dự chỉ đến với những con người sống đức hạnh, có lương tri, biết hoàn thành trọn vẹn công việc của mình, dù đấy là một công việc khiêm tốn. Như thế thì mọi người đều có thể có danh dự, chứ danh dự không phải là riêng của những kẻ có chức , có quyền trong xã hội. Nhưng do ngộ nhận mà danh dự đã bị coi là một khả năng kích thích con người có hành động đẹp đẽ , vĩ đại, theo xu hướng khoa trương, phù phiếm bề ngoài, để tao ra danh dự cho mình. Bởi khi đó danh dự đã bị đồng hóa với danh vọng. Thông thường, danh vọng có khả năng kích thích tâm lý, có thể làm cho con người u mê đến mức sa đọa, y như là một thứ thuốc phiện. Người ta đam mê chạy theo danh vọng, để rồi tự biến thành kẻ khoe khoang, kiêu ngạo, hoang tưởng. Tranh đua nhau trên con đường dang vọng thường làm cho mình thành ích kỷ, thấp hèn. Danh vọng đã đẻ ra một cấp trên kiêu ngạo, một cấp dưới nịnh nọt. Nó có thể cải trang một người bình thường thành kẻ tự đắc, một nhà chính trị thành một lãnh tụ độc tài, đam mê quyền lực, điên cuồng khao khát danh vọng, quan liêu cửa quyền đến mức hành động, nói năng như cha mẹ dân, rồi muốn được tôn vinh làm cha dân tộc.
Về mặt tâm lý xã hội, danh dự cũng như hạnh phúc, không thể tìm kiếm, không thể mua chuộc nó một cách trực tiếp, bằng quyền lực hay tiền bạc, như người ta vẫn đi tìm kiếm danh vọng. Danh dự chỉ tới một cách gián tiếp từ bên ngoài, với những ai biết sống một cách xứng đáng, có lương tri, sống ngay thẳng, trong sạch. Danh dự do đó quả thật là một nền tảng của đạo đức. Không thiếu gì xã hội, trong đó con người ngông cuồng khao khát danh vọng, một xã hội chỉ trọng vọng bề ngoài, chỉ trưng khoe thành thích gỉa tạo một cách bệnh hoạn. Một thí dụ điển hình về mặt tiêu cực của danh vọng là thói háo danh với bằng cấp. Bằng cấp chỉ là một hình thức chứng thực khả năng. Danh dự của một người có học có trí thức là biết sống không ồn ào, không khoa trương, biết chứng tỏ trình độ bằng kết quả của việc làm. Khi danh dự bị nhầm lẫn với danh vọng, thì nó đã đưa tới sự gian lận trong thi cử, mua bán bằng cấp chạy chọt chức tước.
Những thành tích mưu cầu vinh quang, đầy danh vọng của kẻ có quyền lực, mà có người đã được hậu thế ca ngợi, có khi còn được tôn thờ như thánh. Những thành tích mưu cầu vinh quang danh vọng một cách đam mê, cố mưu tìm chiến thắng kiểu Pyrhus, cố tạo ra những công trình vĩ đại như Kim Tự Tháp, như Vạn Lý Trường Thành…và nhầm lẫn đấy là những thành tích của danh dự. Thực ra, những công trình vĩ đại ấy không thể là biểu hiệu cho danh dự và đạo đức, đạo lý. Vì chiến thắng như thế là phung phí xương máu quân lính, vĩ đại như thế phung phí mồ hôi, nước mắt của dân chúng. Chúng không mang tính đạo đức và nhân bản. Vì vậy, nhiều nhà lãnh đạo quyền lực lớn trong lịch sử chẳng thể trở thành nhà đạo đức, càng không thể là thánh nhân.
Vẫn chưa được giải phóng.
Vì cách mạng không chú ý tới vấn đề nhân bản, nên rất nguy hại cho sự xây dựng con người. Guồng máy tuyên truyền nêu ra những tấm gương để giáo dục tuổi trẻ. Đây thật sự là đã có nhầm lẫn giữa mưu trí và trí tuệ. Những tấm gương mưu mẹo, lừa gạt, trí trá để phá đich, diệt địch là quỉ kế, là thủ đoạn, chứ không phải là trí tuệ. Một hành động của trí tuệ là một việc làm có tính chính nghĩa, chính đạo, trong sáng. Mưu trí tin tưởng vào con đường thủ đoạn, tiêu diệt, của chiến tranh. Thế nên nó đề cao những thành tích ám sát, đặt mìn, gài bom…, đó là mưu mẹo, là thủ đoạn quỉ quyệt, gian ác, chứ nó không phải là trí tuệ.
Trí tuệ là biết cách thay ác bằng thiện, biến thù thành bạn, không làm những điều dối trá, độc ác, phù phiếm, mà cố gắng làm những điều trong sạch, hài hòa, bền vững. Trí tuệ tin tưởng vào con đường tiến lên của nhân cách, của đạo lý nên nó tin vào các giải pháp hòa bình. Nhầm lẫn về mặt này , nên giáo dục cách mạng đã vô ý thức thiên về xu hướng tạo dựng một mẫu người thủ đoạn, láu cá, lưu manh chỉ đắc dụng trong chiến tranh. Chứ không phải một mẫu người ngay thẳng, chân thật của trí tuệ để xây dựng những giá trị bền vững. Trong xã hội đầy những con người mưu trí, thủ đoạn thì xã hội ấy không còn lương tri, không còn biết luân thường, đạo đức và lý tưởng gì nữa.
Phản biện là hướng nghiên cứu mới.
Phải nhìn nhận, những gì xuất hiện trong hiện tại đều có gốc rễ từ quá khứ, y như những lớp đất đá lần lượt, qua thời gian, kết tụ thành từng địa tầng, lớp nọ đè lên lớp kia. Cây cỏ mọc trên mặt đất ấy, nhưng chính gốc rễ của nó đã hấp thụ những yếu tố, từ các tầng lớp bên dưới, để tạo ra tất cả những gì hiển hiện trên mặt đất này, ở trong hiện tại này. Tất cả đều do chất liệu của một quá trình kết tụ, tích lũy từ dĩ vãng : hiện tại là một di sản sống động, là gánh nặng đang tác động do quá khứ để lại. Cái gì hiện hữu hôm qua thì hôm nay nó vẫn còn tác động. Cái gì hiện hữu hôm nay, thì rồi nó vẫn tác động ở tương lai, gần hay xa. Không có cái gì đã tác động tốt hay tác hại hôm qua mà sẽ mất hẳn đi trong hôm nay, không có cái gì đang tác động tốt hay xấu hôm nay mà sẽ hoàn toàn mất đi trong tương lai. Cứ như trong hóa học, không có gì đã có mà rồi sẽ mất đi hoàn toàn. Nó sẽ xuất hiện dưới một dạng khác, thể khác, chứ không biến đi mà không để lại dấu vết.
Không có cái gì không hề có hôm nay mà sẽ có trong tương lai : cổ xúy đấu tranh bằng hận thù, bạo lực hôm nay, rồi thì nó sẽ đẻ ra hận thù và bạo lực trong tương lai. Và chính quy luật này cho biết, muốn xây dựng những điều công bằng, chân thật tốt đẹp của thế giới đại đồng trong tương lai, thì phải bắt đầu thực hiện những bước công bằng, chân thật tốt đẹp ấy, ngay từ hiện tại bây giờ. Phải xử lý, thanh toán cho hết những di sản thù hận của quá khứ đang hiện diện trong thực tại, để nó không còn tác động trong tương lai. Khung cảnh lý luận như thế là căn cứ trên một hiện tại sống động, nghĩa là nó phải thanh toán, nó phải gột rửa mọi xấu xa, để rồi nó còn tiếp tục sống động trong tương lai, như là cái gốc tốt đẹp, tử tế của tương lai.
Không có thứ lý luận biện chứng nào có thể chứng minh rằng một xã hội đầy đen tối, đầy dối trá, độc ác, quỉ quyệt, đầy hận thù, tranh chấp, đầy chia rẻ và tham nhũng của hôm nay sẽ đẻ ra một thế giới đại đồng chân thật, đoàn kết, thương yêu, tốt đẹp trong tương lai !
Mà có thật là những con người vô sản đang phấn đấu để vẫn còn là người vô sản trong tương lai ? Hay nó đang phấn đấu để trở lại con người hữu sản ? Phấn đấu để có một cái gì cho mình, hay để rồi không có gì cả cho riêng mình ? Có những nhận định khắc khe cho rằng một số không ít đảng viên, chỉ vì muốn lo toan, củng cố các điều kiện sinh hoạt cho gia đình mà bị quy chụp cho tội cách mạng biến chất, chỉ biết lo riêng tư. Đấy là một lối nhìn sai lệch. Vì đấy là một thứ lý luận theo lô-gich hình thức của phái siêu hình, không nhận ra sự thật trong cái thực tế rất tự nhiên trong vận hành cách mạng của con người. Lối nhìn ấy thật sự không phải là biện chứng. Thực ra là họ vẫn lẩn quẩn trong một số lý luận siêu hình mà không biết.
Thân phận những con rối.
Cái phần sự nghiệp xây dựng mô hình thế giới đại đồng của Marx đã làm hòng học thuyết. Nếu trong phần phê phán chủ nghĩa tư bản, Marx đã sử dụng những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử đương đại, trong xã hội đương thời, để đả xã hội tư bản. Cách phê phán này có tính biện chứng duy vật sử quan không thể bắt bẻ. Nhưng bước qua phần lý luận để xây dựng xã hội mới bằng cách nêu mô hình thế giới đại đồng mà mọi người mơ ước, thì Marx bắt đầu lúng túng trong biện chứng. Vì cái mô hình thế giới đại đồng ấy là không có giai cấp, không có bóc lột. nó được coi là nền tảng của khái niệm, của ý thức đấu tranh giai cấp. Cái mô hình ấy, thật ra là chưa hề thấy, chưa hề có ở đâu đó trong lịch sử. Nó chỉ là một ảo tưởng, một mong ước sẽ có trong tương lai. Làm như vậy trong lý luận là Marx đã mang cái tương lai ảo ấy, đặt nó lên trước hiện tại để dùng nó như một kinh nghiệm đã có, đã thấy. Đấy là lối lý luận với một nền tảng siêu hình. Biện chứng đó không có chút gì là duy vật sử quan .
Từ khái niệm thế giới đại đồng tốt đẹp theo dự báo, do mong ước ấy, Marx đã biến nó thành ý thức cách mạng đấu tranh giai cấp, để hành động, để đạt tới thắng lợi, để xóa bỏ giai cấp bóc lột, để hoàn thành một xã hội không có giai cấp. Viễn ảnh quá đẹp ấy là một kinh nghiệm ảo, là một thứ thiên đường ảo chưa hề có trên trái đất. Ở trong mô hình ảo ấy, giới công nông đã được giải phóng, đã làm chủ được chính mình. Từ kinh nghiệm ảo mơ ước ấy, Lénine khai triển một chủ nghĩa xã hội mới, bằng cách khơi dậy hận thù giai cấp để làm động lực đấu tranh của giai cấp vô sản, làm đòn bẩy để hoàn thành cách mạng, tạo ra sự đổi đời với một hệ thống giá trị mới của giai cấp công nông, với một đảng cầm quyền là đại diện cho giai cấp công nông. Vậy là cách mạng đạt tới một chế độ mới, một nhà nước mới theo một chủ nghĩa xã hội mới. Trong chế độ mới ấy, sẽ không còn cảnh người bóc lột người, công nông nào mà không mê !
Biến khái niệm, biến học thuyết đấu tranh giai cấp chống bóc lột thành ý thức cách mạng. Lấy hận thù làm nền tảng phát động một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn cầu. Đấy là một phát minh ý thức hệ vô cùng sắc bén và tinh vi. Bởi nó có một sức bùng phát phi thường, nhờ đánh thức dậy trong con người bản năng bạo lực của thời còn là muông thú, khi khơi dậy tâm lý hận thù. Lý thuyết cách mạng lấy hận thù giai cấp làm động lực, lấy ý chí tiêu diệt giai cai cấp bóc lột làm vũ khí, chỉ nghe sơ qua lý thuyết ấy, bất cứ dân cùng khổ nào cũng tin như thế là đúng, như thế sẽ là thắng, sẽ là đại thắng.
Thế nhưng, cho tới nay, những ai đã từng sống cả cuộc đời trong sự vận hành cách mạng do Lénine phát động, do Staline triệt để khai thác, do Mao hò hét vận động, đều đã thấy rõ kết quả tồi tệ của một tổ chức mang danh đảng của giai cấp công nông, là một nhà nước chuyên chính vô sản cầm quyền. Đau đớn hơn hết là trong thực tại, con người lao động vẫn còn bị bóc lột. Trong xã hội mới ấy, thành phần công nông vẫn chỉ là thành phần thiệt thòi nhất. Kết qủa là trong thế giới đại đồng ấy, đã không hiển hiện một chế độ xã hội chủ nghĩa nào cả. Sau này, cuộc cách mạng long trời lở đất ấy đã lộ ra cái bản chất vừa ngu tín, vừa cuồng tín.
Đặc biệt là ngay trong chế độ vô sản mới này, con người vô sản ở khắp nơi đều tỏ ra vẫn giữ nguyên bản năng hữu sản. Họ gậm nhấm, xâm chiếm của công, cướp đoạt tài sản của tập thể, của kẻ yếu, cướp đoạt đất đai của nông dân làm của riêng. Tư hữu kiểu cũ do làm ăn cần cù, do tích lũy lầu dài mà có được, nay đã bị xóa bỏ. Thay thế nó nay là tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký của quyền lực, hoặc do móc ngoặc với quyền lực. Trong thực tế, trước mắt, con người vô sản có quyền hành, luôn luôn phấn đấu để chiếm hữu một cách rất tự nhiên của cải của xã hội, để trở thành nhà tư sản mới.
Phải thẳng thắn ghi nhận rằng cho tới nay, chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất đã thực hiện đúng một hình thức xã hội không giai cấp mà Marx mơ ước. Đó là chế độ vô sản, một xã hội không có tư hữu, không có tiền tệ để dùng làm dụng cụ bóc lột. Đó chính là cuộc cách mạng mà Pol Pot đã xây dựng tại Cambốt. Trong suốt những năm tồn tại của chế độ Pol Pot, các chế độ xã hội chủ nghĩa khác đã im lặng đồng tình, đồng ý, vì tin rằng trong chế độ Pol Pot ấy thật sự chỉ có giai cấp vô sản.
Kẻ gợi ý, kẻ chuyển lửa của niềm tin đấu tranh giai cấp cho các nhà lãnh đạo, trong đó có Pol Pot, để đi vào con đường cuồng tín đến đẫm máu chính là Marx. Lời tiên tri sẽ xóa bỏ giai cấp của Marx đã mê hoặc nhiều thế hệ. Và họ lao mình vào tội ác.
Thủ phạm gây ra đại bi kịch cho nhân loại, chính là Marx.
Nhà báo cộng sản người Úc Winfred Burchett giải thích về chính sách thực dụng rất nguy hiểm của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề Việt Nam. Theo Burchett thì Mỹ nhúng tay vào Miền Nam Việt Nam vì coi đó là một thị trường của khối tư bản, và tuyên bố quyết tâm bảo vệ Miền Nam Việt Nam, vì đấy là một « tiền đồn của thế giới tự do ». Điều này có nghĩa là Mỹ muốn giữ vùng ấy không để lọt vào trong bức màn sắt của khối cộng sản. Nhưng, Mỹ cũng dứt khoát không tính diệt cộng sản BắcViệt để thống nhất Việt Nam bằng cách này hay cách khác. Bởi chiến tranh đối với Mỹ luôn luôn nằm trong chiến lược kinh tế thị trường toàn cầu. Cuộc chiến tranh bảo vệ thị trường Miền Nam Việt Nam đã bị sa lầy vì tốn kém và bị dư luận nhân dân Mỹ chán ghét. Thế nên các nhà chiến lược Mỹ đã đề ra một giải pháp khác. Vì không bảo vệ được thị trường Miền Nam Việt Nam bằng chiến tranh, thì phải quay qua giải pháp tìm thị trường thay thế bằng con đường hòa bình, cách này ít tốn kém mà bền vững hơn.
Bởi Mỹ trên nguyên tắc, không hề tính tiêu diệt chế độ cộng sản ở Miền Bắc Việt Nam, nên khi thấy cuộc tổng tiến công nổi dậy hồi Tết Mậu Thân, 1968, đã làm cho « địch » kiệt sức, thì đó là lúc tốt nhất để đưa « địch » ngồi vào bàn hội nghị. Cũng như khi thấy cuộc oanh tạc Miền Bắc hồi 1972 đã đủ cho Hà Nội thấm đòn, thì Mỹ liền ngưng ném bom, rồi đưa ra những điều kiện cụ thể để Hà Nội chịu ký kết chấm dứt chiến tranh, để Mỹ rút chân ra khỏi Miền Nam Việt Nam. Tất cả là dùng lá bài hòa bình thay thế cho lá bài chiến tranh. Cũng để tỏ rõ chính sách của Mỹ như thế, nên hạm đội 7 rất hùng hậu của Mỹ, lúc đó có mặt đông đảo ở ngoài khơi Việt Nam. Vậy mà lực lượng hùng hậu ấy đã đứng ngoài nhìn hải quân Trung Quốc đánh chiếm đảo Hoàng Sa của Miền Nam hồi 1974. Sự án binh bất động này có nghĩa là Mỹ không coi Miền Nam Việt Nam là tiền đồn nữa. Ngay từ khi đổ bộ vào Miền Nam Việt Nam, Mỹ đã chỉ đánh cầm chừng để giữ đất, để cầu hòa chứ không có ý đẩy chiến tranh đến tận cùng ra Miền Bắc, để tiêu diệt chế độ cộng sản ở Miền Bắc. Dù là đã oanh tạc Miền Bắc, nhưng chiến lược của Mỹ là chỉ chờ lúc địch kiệt quệ để áp dụng lá bài hòa bình, nhằm đánh « địch » bằng kinh tế hậu chiến. Và quả thật ván bài này đã làm cho Hà Nội hoàn toàn kiệt quệ về kinh tế. Để rồi tới lúc Hà Nội đã chiến thắng, nhưng laị phải chập nhận mọi điều kiện để Mỹ bỏ cấm vận. Rồi sau đó thì Hà Nội đã trải thảm đỏ long trọng đón rước lãnh đạo Mỹ trở lại, tức là từ đó, chính thức mở cửa cho vốn tư bản tràn vào tư do tung hoành trên nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Một chế độ như thế thật là lý tưởng cho sự khai thác lâu dài của tư bản Mỹ, có lợi hơn hẳn dưới thời chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Miền Nam. Bây giờ thì kết cuộc đã rõ rệt của ván bài « ai thắng ai » trong cuộc đấu trí ấy.
Công cuộc phát triển cách mạng vô sản, với giấc mơ xây dựng thế giới đại đồng, như vậy là đã hoàn toàn tan vỡ, sau khi đã hy sinh tính mạng của hàng bao nhiêu vạn chiến sĩ cộng sản. Bây giờ thì không còn chống Mỹ cứu nước nữa. Giờ đây là phải thoát ra khỏi chế độ bao cấp, tự túc tự cường, phải bám theo Mỹ để cứu nước. Cà một nền kinh tế toàn cầu dưới sự áp đặt của Mỹ, nay tự do như thác đổ tràn vào một xứ sở bị bị kiệt quệ đến xương tủy vì chiến tranh và cách mạng.
Giờ đây, cả nước đều phấn khởi hồ hởi vì được « hòa nhập ». Cửa đã mở rộng để cho vốn kinh tế thị trường tư bản tràn vào. Giờ đây, quê hương ta đang cuồng nhiệt lao vào đà phát triển sổi thì theo ý hướng của đồng USD, của những thế lực siêu đẳng về phương pháp bóc lột tinh vi. Các nước quanh ta, cùng khởi sự tranh đấu giành độc lập sau thế chiến thứ hai cùng với ta, nhưng do họ không có « lãnh đạo thần thánh », nên họ không phải hy sinh như ta, không phải đổ ra nhiều xương máu như ta. Và họ đã giành được độc lập và ấm no trước ta cả nửa thế kỷ. Như vậy cái công lao, cái tài lãnh đạo thần thánh ấy, sự thật chúng là công hay tội ?
Giờ đây, đảng phải ngả hẳn sang kinh tế thị trường của khối tư bản. Chính sách ấy thật ra mang tố chất phản cách mạng xã hội. Làm như vậy chỉ cốt để chế độ và đảng tồn tại. Đảng phải nói vớt vát rằng đó là « nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa », tức là vẫn còn lôi ông Marx ra làm bình phong. Tôn thờ ý thức hệ mác-xít là duy trì tư duy sai lầm từ cái gốc tổ tông của cách mạng. Nói kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nói dối, là dùng cái bình xã hội chủ nghĩa, nhưng rượu ở bên trong nay là rượu của tư bản. Nói vậy là vẫn mang bóng ma của phần biện chứng không tưởng, siêu hình của Marx ra để bảo vệ.
Sự thực ở ta, nay không phải đang áp dụng « kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa », mà thực tế đang thi hành thứ « xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường ». Nghĩa là ngày nay đảng vẫn duy trì hình thức cai trị của chế độ chuyên chính, nhưng đi theo một thứ chủ nghĩa tư bản mới, với lý luận của xã hội chủ nghĩa. Thứ chủ nghĩa tư bản mới dã man này ở Mỹ không có. Vì ở đó dân có quyền của dân, dân được phép phê phán, thay đổi cai trị bằng lá phiếu. Còn ở nước ta, thực sự là nay đang theo một thứ chủ nghĩa tư bản rất mới so với trước đây, nghĩa là cái gì cũng bị coi là hàng hóa, cái gì cũng có thể rao bán ; từ lý thuyết, nghĩa vụ, con người, từ trẻ thơ tới thanh niên, phụ nữ, có thể bán cả tài nguyên, đất đai, lãnh thổ, sức lao động ra nước ngoài để thu đô-la về. Độc hại của sự định hướng theo kinh tế thị trường là đã coi các nghĩa vụ cao quý nhất như giáo dục để phát triển con người, như y tế để cứu chữa con người, thì nay những nghĩa vụ đó cũng đều là hàng hóa, cũng phải chịu luật hạch toán kinh tế, cũng phải tính lời, tính lỗ. Phát triển xã hội theo định hướng kinh tế thị trường như hiện nay là sự thống trị của tư bản man rợ, là một sự phá hoại tinh thần về mọi mặt, từ lương tri tới lý tưởng, từ trật tự kỷ cương tới truyền thống văn minh, văn hóa của tổ tiên.
Tại các nước dân chủ như ngay tại Mỹ, chính sách kinh tế thị trường luôn luôn bị quyền tự do dân chủ kiểm chế, bị tự do báo chí canh trừng, nên nó không thể tự do tung hoành phá phách được, vì ở đó có sức phản bác của người dân. Vì dân có quyền dùng lá phiếu của mình để lật đổ một chính phủ không tôn trọng và bảo vệ dân. Ở nước ta cho tới nay, lá phiếu chỉ là trò đùa dân chủ của đảng, để tô đẹp bề ngoài cho chế độ. Thực tế là chế độ ta đã không bảo vệ dân, vì thực chất của lá phiếu ở ta không có quyền lực gì cả. nó chẳng thể đào thải được một chính quyền tham nhũng thối nát đang bị dân chúng oán ghét, nguyền rủa.
Về mặt triết học, kẻ từ khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt, thì tất cả những gì xảy ra trên thế giới sau ngày 30 tháng tư 1975, đều đã làm chứng cho một sự thật đã bừng sáng. Vì hòa bình ở Việt Nam là một mốc thời gian, đánh dấu giai đoạn mà sự thật đã chứng minh rằng không hề có một chủ nghĩa vô sản nào, một chính quyền vô sản nào đã hình thành trong một nước xã hội chủ nghĩa nào cả. Vì thế mà cái gọi là Đệ Tam Quốc Tế nay đã sụp đổ hoàn toàn, từ căn bản tư tưởng, từ bên trong xương tủy của nó. Cái gọi là tinh thần, là nghĩa vụ quốc tế vô sản, là Đệ Tam Quốc Tế ấy chỉ là cái vỏ bề ngoài, là một tấm màn che mắt, là một con số không. Đệ Tam Quốc Tế chỉ là công thức giúp nước Nga giữ lại toàn thể di sản đế quốc do các Sa hoàng để lại. Toàn thể khối Liên Xô tại Đông Âu đã sụp đổ từ bên trong vì sự trống rỗng tư tưởng giải phóng của nó. Cuộc cách mạng vô sản của Pol Pot đã bị bộ đội cộng sản Việt nam dẹp tan, cuộc chiến tranh ngắn ngày do đảng cộng sản Trung Quốc phát động chống chế độ cộng sản ở Việt Nam năm 1979,
tất cả các cuộc chiến tranh ấy chỉ là hành động của thực dân đế quốc bành trướng kiểu mới. Về mặt kinh tế, sự đứng dậy ngoạn mục của Trung Quốc, của Việt Nam, cũng là do thành phần tư sản, tư bản đỏ đã bùng lên cấu kết với tư bản man rợ nước ngoài, rất lấn át, rất tàn nhẫn, rất vô luật lệ, để tung hoành. Vì thế nó đã phát triển rất nhanh, rất ngoạn mục, nhưng cũng vô cùng tai hại.
Giải mã lãnh tụ
Hồ là một nhân vật vô cùng phức tạp, vô cùng thông minh, rất mưu trí, một con người sắt đá đến mức vô cảm, vô tình, sẵn sàng chụp bắt mọi cơ hội để thành đạt. Một ý chí thành đạt không gì lay chuyển. Đấy là một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời, một con người không có tình bạn, không có tình yêu gia đình, tình yêu con cái, một bộ óc nung đúc cuồng vọng, với một ưu tư duy nhất là phải leo lên tột đỉnh quyền lực để đạt tới mục đích của mình. Vì thế, ông ấy không chấp nhận một ai trong đám chung quanh là ngang mình. Không hiểu gì về lãnh tụ là điều nguy hiểm. Những ai từng coi thường lão, từng tỏ ra ngang hàng với lão , thì sau đều đã vĩnh viễn bị loại trừ ra khỏi tầm mắt của hắn. Không ít kẻ đã mất mạng, mất cả xác.
Vì vậy, cần phải biết giải mã lãnh tụ. Phải hiểu rằng hắn có tâm thức mình là bên trên tất cả, là một bậc kỳ lão gia trưởng luôn luôn tỏa sáng bởi một thứ hào quang thần thoại. Và, đám quần thần chung quanh hắn không tha thứ cho một ai dám tỏ mình ngang hàng với. Từ những tay trí thức nổi tiếng tâm huyết như Nguyễn an Ninh, Phan văn Hùm…, cho tới kẻ được đào tạo chính quy như Trần văn Giàu, và biết bao nhiêu trí thức có uy tín khác nữa, đều là những nạn nhân của thái độ ngang hàng như thế. Tất cả đều bị loại bỏ một cách tàn nhẫn và vĩnh viễn. Người ta kể lại rằng, Tạ thu Thâu đã chết mất xác vì câu nói : « Ngoài bắc có cụ, trong nam có…tôi ».
Hồ có quyết tâm không gì lay chuyển là được tận tay dẫn dắt dân tộc đi tới thế giới đại đồng. Dù khó khăn mấy, hao tốn mấy thì cũng phải hoàn thành cho bằng được. Vì thế nên hắn quyết tâm nắm bắt mọi cơ hội để đạt tới đỉnh cao, để củng cố quyền lực, bằng mọi giá, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của đạo lý, cứ như theo sách vở của Machiavel. Vì thế, hắn thấy con đường chuyên chính vô sản của xã hội chủ nghĩa là đúng nhất, tốt nhất. Các nhà nghiên cứu nước ngoài đã không chú ý nhiều tới « cuồng vọng lãnh tụ » ấy, khi họ tìm hiểu Hồ. Họ thấy phong cách lãnh đạo của Hồ như thế là do bản năng tự nhiên. Bởi các nhà nghiên cứu ấy mang sẵn trong đầu những định kiến chính trị cổ điển, qua cái nhìn bị chói lòa bởi những huyền thoại của bộ máy tuyên truyền. Các nhà nghiên cứu ấy đã vô tình sử dụng quá nhiều tư liệu là sản phẩm chính thống của đảng. Họ đã không hiểu những hành động cực đoan của cuồng vọng.
Phải biết rằng huyền thoại và vóc dáng lãnh tụ của Hồ là tác phẩm của một công trình nghệ thuật hóa trang cao độ, một công trình điểm tô, giàn dựng, để công kênh Hồ lên thành một nhà lãnh đạo uy nghi, kiệt xuất, như là bậc thần, bậc thánh, để dân chúng một lòng tin tưởng mà sùng bái. Hồ được tôn vinh làm bác, làm cha dân tộc. Họ dạy cho dân tiêu chuẩn lý tưởng : cái gì có giá trị thì cũng phải là của bác Hồ, của cụ Hồ. Nào là « cháu ngoan bác Hồ », « cây vú sữa bác Hồ », « nhà sàn bác Hồ », cho tới « anh bộ đội cụ Hồ ». Từ đó đã biến thể ra thành cái nếp suy nghĩ rằng cái gì hay, cái gì tốt, cái gì có giá trị, thì cái đó phải là của bác, của đảng.
Tại sao một đảng cách mạng, lấy việc giải phóng con người làm mục đích tối hậu, mà lại muốn biến tất cả thành sở hữu của lãnh tụ, của đảng cầm quyền ? Đấy không phải là tâm thức của con người đã được giải phóng, mà là tâm thức của con người đã bị mất tự do, vì phải nguyện làm nô bộc cho một vị chúa tể, cho một nhóm quyền lực. Đấy là do tình trạng đã quá sùng bái. Đấy là căn bệnh của chủ nghĩa ngu tín, chủ nghĩa cuồng tín. Phải giải mã những cuồng vọng bí ẩn, những sức ép giáo điều của ý thức hệ thì mới thoát ra khỏi tình trạng ngu tín và cuồng tín ấy.
Có một điều rất đáng tiếc là các nhà sử học khi tìm hiểu về Hồ đã bỏ qua một thứ tư liệu rất chính gốc, rất bộc lộ, rất chân thực, do chính đương sự là tác giả. Đó là ý nghĩa của những biệt hiệu hay những tên giả mà chính Hồ đã tự đặt cho mình, qua từng giai đoạn mưu tìm đường hoạt động, lúc thiếu thời, khao khát tìm cách tiến thân, tìm đường hoạt động chính trị. Có những cái tên theo tiếng nước ngoài khá ngộ nghĩnh. Nhưng, đáng chú ý là từ khi tự đổi tên là Tất Thành (1911), với khát vọng khiêm tốn là sẽ thành đạt, rồi cho tới sau này thì bỏ hẳn họ Nguyễn, để thay đổi, lấy lại họ gốc là họ Hồ, và chọn cái tên cực kỳ kiêu sa, coi mình là bậc Chí Minh (1945). Nói chung, với cả trăm tên giả thường là rất tiêu biểu tâm thức như thế, đã phản ảnh một cách chân thực những bước chuyển biến trong đầu óc của « ông cụ ». Mỗi lần thay tên, đổi họ là một bước có ý nghiã trong hành trình vươn lên, đi tới để trở thành lãnh tụ. Đấy là quá trình diễn biến của sự hình thành một cuồng vọng. Phải phân tách cặn kẽ từng cái biệt danh ấy như là một dấu hiệu tâm lý chính trị, từ lúc chỉ mong có cơ hội thành đạt, cho tới lúc quyết tâm, bằng mọi giá, mọi cách, để đạt tới tột đỉnh của quyền lực như là một ông vua (Vương), là một người yêu nước chân chính (Ái Quốc), là một lãnh tụ thông minh bậc nhất trong thiên hạ (Chí Minh). Thật ra, trong xã hội phong kiến, những danh hiệu ấy chỉ có thể do người đời phong tặng cho những nhân vật lịch sử được người đời sau công nhận là xuất sắc, xứng đáng mang những danh hiệu ấy. Nhưng, đây lại do chính đương sự ngay trong hiện tại đầy vấp váp, đã tự mình tặng cho mình.. Một nhà túc nho, một người trí thức có đầu óc tình táo, có liêm sỉ, một bộ não minh triết thì không bao giờ dám tự ý xưng mình như thế. Thật khó giải thích, một kẻ tự coi mình như là « ông vua », là bậc « quân tử » siêu phàm , mà lại có hoài bão làm môt nhà cách mạng, một chiến sĩ vô sản, cộng sản. Sự công khai tự tôn vinh mình lên một cách quá trớn như thế cũng không phải là thái độ của một bậc chí nhân, chí thánh. Đấy chỉ là những biểu hiệu của một thứ sở cuồng lộ liễu, lỗ mãng, một thứ bệnh tâm thần đam mê đến mất thăng bằng về mặt lý trí, liêm sỉ, đạo lý. Khi tự xưng tụng mình một cách thượng đỉnh, tối cao như thế thì chỉ có thể là vì đã quá khao khát danh vọng.
Ngoài ra, còn có thể tìm hiểu nội tâm, chí hướng của nhân vật lịch sử này qua một công trình phân tích mang tính phân tâm học của từng chữ, từng câu mang nặng một khát vọng, trong hai tập sách tuyên truyền « Những mẫu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ tịch » và « Vừa đi vừa kể chuyện » để thấy rõ từng bước chuyển biến tâm lý, từ lúc chỉ mong được nhận vào trường thuộc địa của « mẫu quốc Pháp » với hy vọng được ra làm quan, cho tới lúc quyết tâm trở thành một lãnh tụ cách mạng. Nhờ những phát tiết lỗ mãng của cuồng vọng như thế, mà Hồ đã tạo ra một thời chính trị vô cùng phức tạp, điên đảo. Một thời mà mọi người đều thấy rằng phải đạp lên lương tri, đạo lý để « cướp quyền », để thành công, để chiến thắng. Thời ấy là thời làm chính trị thì phải biết « mặc áo cà-sa », phải biết đột nhập vào hàng ngũ đối phương, nghĩa là phải biết đánh lừa mọi người. Những lời kể chuyện ấy đều là những thú nhận của một tâm thức, tuy là độc đáo, nhưng không mấy cao cả. Đấy chỉ là bí quyết hành động, trong một đại bi hài kịch của lịch sử. Thành ra qua những cái tên mang mặc cảm tự sùng bái mình như thế, chúng ta có thể hiểu lãnh tụ có đầu óc, có tâm trí, có đạo lý như thế nào. Napoléon, Hitler cũng đều đã là những lãnh tụ có tâm thức tự cao tự đại, nhưng không gian trá đến mức quá tệ hư thế. Bởi họ còn thua Hồ ở chỗ không biết tự ngồi viết sách để tự đề cao chính mình. Thật tình, một người hết lòng vì nước vì dân, một chính danh quân tử, một trí thức lương thiện, thì không thể tự khoe mình, tự viết sách để ca tụng mình một cách ngông cuồng lộ liễu như vậy. Lịch sử đã mang dấu ấn của một tham vọng, một mưu trí tột đỉnh tự tôn.
Thực tế mà nói, Hồ biết rằng trình độ tư tưởng, lý luận cách mạng, thì mình không làm sao so được với những Trần Phú, Lê hồng Phong, Hà huy Tập, Nguyễn văn Cừ, là những người được đào tạo chính quy, ngay cả với Trường Chinh cũng vậy. Thế nên phải tìm cách chế ngự các đối thủ ấy. Phải cố nêu gương, phong cách sống cao thượng, thanh đạm của một chân nhân để tỏ ra mình là nhà cách mạng chân chính. Vì một lẽ giản dị là đời sống và hành tung đa dạng, đa phương, muôn mặt, muôn vẻ rất ly kỳ, đầy bí mật của Hồ, lúc xuất quỷ, lúc nhập thần, như thế nên không ai sánh được. Guồng máy tuyên truyền cách mạng dạy dân phải sống và làm việc theo gương bác Hồ. Nhưng, làm sao một người bình thường có thể sống với tung tích không rõ rệt, gốc gác đầy bí ẩn, với nhiều tên, họ lung tung, với đường lối hành động muôn mặt như Hồ được. Phải có cái đầu cực kỳ mưu trí mới có khả năng dựng nên những huyền thoại của cuộc đời đầy phiêu bạt, nay đây, mai đó, với cả trăm cái tên giả khác nhau, làm nhiều nghề vinh nhục khác nhau. Hành trình gập ghềnh, khúc khuỷu của Hồ thì khó ai có thể đi theo. Từ một chú bé học chữ nho ở trong làng, từ một cậu học trò nghèo sống vất vả ở Huế, từ một ông thầy giáo quèn ở Phan thiết, từ một anh bồi hầu hạ quan tây trên tàu thủy, từ một anh thợ chụp ảnh dạo ở Paris, từ một kẻ mượn danh một nhóm aí quốc « An nam » viết báo, viết kiến nghị gởi hội nghị quốc tế, từ một đảng viên đảng xã hội Pháp, nay bỗng xuất hiện ở Nga, mai lại là một cán bộ ở bên Tàu, nay bị Đệ Tam Quốc Tế loại trừ vì có đầu óc « quốc gia chủ nghĩa hẹp hòi », mai lại thấy chạy về ẩn náu ở Trung quốc, ở Xiêm, rồi sau lại thấy xuất hiện trở lại ở Liên Xô, nhưng chỉ được chầu rìa bên lề đại hội kỳ 5 của Đệ Tam Quốc Tế, chứ không được làm thành viên của đoàn đại biểu chính thức của phong trào cộng sản Đông Dương. Rồi sau lại thấy xuất hiện với bộ áo cà sa ở Xiêm, rồi trong quân phục giải phóng quân Trung Quốc khi được nhận vào làm việc trong « bát lộ quân » của đảng cộng sản Trung Quốc, có lúc thì sống như một dân Hán tộc ở Liễu Châu, ở Quế Lâm, Thượng Hải, Trùng Khánh, Côn Minh. Sau biết bao nhiêu truân chuyên, rồi bỗng nổi bật như một nhà chính trị, một lãnh tụ cách mạng. Một con người đa năng, muôn mặt, muôn ý hướng phức tạp như thế, ai mà làm theo, noi theo tấm gương ấy được.
Từ kinh nghiệm cực kỳ cơ hội đó, cực kỳ muôn mặt đó, người dân rút ra bài học rằng, muốn sống, muốn thành công như bác Hồ thì phải biết sống muôn mặt, vừa đạo đức vừa thủ đoạn, để thành đạt. Đấy là lối đạo đức cách mạng thực tiễn, xu hướng ấy nay vẫn còn rất phổ biến và rất phát triển trong chế độ xã hội chủ nghĩa theo định hướng kinh tế thị trường.
Chính trị cũng như khoa học, nghệ thuật, tôn giáo, tất cả đều là những phương cách phục vụ con người. Nhưng, khi nói tới tội ác của chính trị, của khoa học, của tôn giáo thì đều do con người, tại con người đã sử dụng chúng. Triết học cũng vậy, triết học phải luôn luôn đi theo con đường chân thật của trí tuệ, con đường tôn trọng đạo lý, tôn trọng chân lý.Nhưng, khi triết học ngả theo con đường của quyền lực, thì nó không còn là triết học nữa, mà trở thành một thứ tà thuyết, một vũ khí của ma quỉ. Bởi thế, khi một bộ môn tư tưởng mang mầu sắc chính trị thì sẽ vô cùng tai hại vì người chủ trì bộ môn ấy. Mầu sắc chính trị sẽ dẫn đi loanh quanh vào những ngõ ngách dối trá và sai lầm. Triết học là đi tìm phương pháp suy tư đi tới sự thật, là để dẫn dắt con người đi tới những giá trị bền vững của cuộc sống, tức để con người bớt đau khổ, để đi tới hạnh phúc. Bài học lớn của triết học là giàn xếp bằng lý luận trí tuệ mọi mâu thuẫn, mọi xung đột, bằng tình thương giữa người và người, người với thiên nhiên, người với vũ trụ bao la. Nhưng cho tới nay, con người vẫn chưa mấy lắng nghe, chưa mấy ai hiểu thấu bài học lớn ấy. Vì thế mà kẻ làm chính trị thường sai lầm khi bất chấp sự thật, khi không tôn trọng con người, không tôn trọng thiên nhiên, vũ trụ. Trong lịch sử đầy rẫy những con người vì cuồng vọng lãnh đạo, nên đã làm hỏng chính trị, đã tàn phá con người. Bi hài kịch ở chỗ con người luôn luôn ưa thích đến cuồng nhiệt để được làm con rối trong trò chơi phá phách xã hội, phá phách thiên nhiên và phá phách cả chính mình.
Trích đoạn phần kết của sách:
Điều đang tiếc, đáng buồn mà ít ai biết được rằng, chính con người Trần đức Thảo, một thời từng chân thành tự nhận mình là người mác-xít ấy , lúc cuối đời đã giác ngộ, đã can đảm nhìn nhận thái độ a dua hèn hạ, đã thú nhận sai lầm của mình, để bác bỏ, phủ nhận những gì đã viết trong cái thời sai lầm vì cuồng tín ấy. Và từ đó, nêu ra nhận thức mới, để đánh gía laị tư tưởng, sự nghiệp, với vấn đề công tội của Marx.
Dù thế nào, thì việc đánh giá cuộc đời và sự nghiệp Trần đức Thảo sẽ là một công việc khó khăn. Bởi việc trả lại công lý cho Trần đức Thảo cần tới lòng dũng cảm, cần có tinh thần lương thiện trí thức, cần tới trí tuệ. Bởi con người ấy đã sống, đã nghiên cứu, đã trải nghiệm trong bối cảnh đầy nhiễu loạn tư tưởng, đầy diễn biến đau đớn vô cùng sôi động, vô cùng phức tạp, trong cái thời lương tri lu mờ, vì chiến tranh, vì cách mạng, tức là cái thời gian đầy những thủ đoạn chính trị, những mưu kế gian xảo, vừa ngu tín vừa cuồng tín.

Không ít người cho cuộc đời ấy là một thất bại, vì đã không biết thỏa hiệp với quyền lực đương thời, không biết thích nghi dù chỉ là trong một giai đoạn tạm thời, để «đi với Bụt thì mặc áo cà-sa, đi với ma thì mặc áo giấy ». Nhưng, cũng chính nhờ vậy mà nay những gì nhà triết học để lại đều thuộc về một sự nghiệp khả tín, chân thật. Không rõ sự thất bại trong chính trị của nhà triết học, cuối cùng có được coi là một thành tựu có ích cho triết học ? Dù thế nào thì cuộc đời ấy cũng là sự trải nghiệm tuy đau đớn nhưng quý hiếm trong hiện thực khai triển cách mạng, chứ không phải trong sách vở. Đây là một bài học về sự vận động của thời gian, do con người, cho con người và cho xã hội, trong lịch sử cận đại.
Có người khẳng định Trần đức Thảo đã thất bại vì cái tội ngông cuồng muốn làm một việc không thể làm, là trở về quê hương cùng Hồ xây dựng một mô hình cách mạng mới mẻ mà loài người mơ ước. Và ông đã chết vì tội thứ nhì là lúc cuối đời ông cố chứng minh cái gốc của mọi sai lầm và tội ác do cụ tổ Marx, trong khi cung đình vẫn sùng bái, vẫn quả quyết bảo lưu rằng Marx « đúng », « duy nhất đúng ». Nhưng, cả hai tội vừa kể đều không thể coi là tội, bởi mơ ước và hành động sám hối chuộc tội đều là quyền cơ bản cao quý của con người trí thức chân chính.
Trần đức Thảo đã có nhận xét về một thời lịch sử bị làm hỏng, làm bẩn, mà người ta khéo léo gọi đó là một thời đầy những mảng tối. Hy vọng rồi đây, sẽ tới một thời trong sáng, sạch sẽ, liêm khiết, một thời dũng cảm, để làm công việc giải tà, dọn rác cho lịch sử, chứ không phải để cố duy trì những cái « duy nhất đúng ». Bởi những cái « duy nhất đúng » ấy đã làm ô danh cả lãnh tụ lẫn cả cách mạng.
Đấy là một con người tàn tạ trong gian nan, hối hận. Đấy là một cuộc đời bi thảm, mang đầy thương tích thối tha của hận thù và bạo lực. Nhưng bộ óc ấy vẫn trong sáng, không oán thù ai, mà chỉ hối hận về sai lầm, về sự im lặng của chính mình, mang tội đồng lõa với sai lầm trong một thời gian quá dài. Đấy là công tội của một kẻ tôn thờ chân lý. Không ít người cho đấy là nỗi đau, một thất bại của nhà triết học, khi đã dại khờ lao mình vào đống rác của lịch sử với giấc mộng cuối cùng, là từ đó sẽ mang công sức và trí tuệ của mình ra để làm sạch lịch sử, làm sạch cách mạng.
Nguồn: HongThanh Facebook

Hồ Chí Minh: Con khủng long ba đầu, chin đuôi

http://danlambaovn.blogspot.com/2014/06/ho-chi-minh-con-khung-long-ba-au-chin.html

Hồ Chí Minh: Con khủng long ba đầu, chin đuôi

Trần Đức Thảo những lời trăng trối
Phan Thanh Tâm (Danlambao) - Đã có nhiều tác giả tây ta viết về nhân vật Hồ Chí Minh (HCM) riêng cuốn Trần Đức Thảo Những Lời Trăng Trối là cuốn rất đặc biệt vì sách đã “phân tích sư thật về những hành động khủng khiếp” của họ Hồ bởi một triết gia “lỗi lạc của Việt Nam và thế giới”. Năm 1951 ông bỏ Paris về bưng, qua ngả Mạc Tư Khoa, tham gia kháng chiến chống Pháp; đã từng “trải nghiệm gian khổ trong chiến tranh, trong cách mạng” suốt 40 năm. Nhà triết học họ Trần trước khi mất đã khẳng định, Marx đã gây ra mọi sai lầm và tội ác. Ông còn nói, chính “cuồng vọng lãnh tụ” đã khiến “ông cụ” là một con người “cực kỳ vị kỷ, bất chấp những chuẩn mực của lương tri, của đạo lý”. Theo ông, đây là “một Tào Tháo muôn mặt của muôn đời” và “là một con khủng long ba đầu, chin đuôi”.
Lời trối trăng của nhà triết học Trần Đức Thảo cho biết, “nếu không dám khui ra những sai trái lịch sử của “ông cụ”, không dám đưa ra ánh sáng tội lỗi của Marx thì không bao giờ thoát ra được tình trạng bế tắc chính trị độc hại như hiện nay ở nước ta”. Theo ông, quá khứ cách mạng của Việt Nam đã tích tụ quá nặng đầy những di sản xấu. Quyển sách dày 427 trang là những lời tâm sự sống động của một nhà tư tưởng giúp độc giả hiểu rõ nguồn gốc của thảm kịch đang bao phủ lên thân phận dân tộc, lên đất nước ta. Ông cảnh báo xã hội Việt Nam “đang bị ung thối bởi căn bệnh xảo trá, căn bệnh thủ đoạn của đảng”. Ông bị tống đi ra khỏi quê hương vĩnh viễn với cái vé đi một chiều, bị đuổi khỏi Sài Gòn, buộc phải đi Pháp, không được trở về Hà nôi.
Trong cuốn sách, nhà triết học Trần Đức Thảo (1917-1993) đã vạch ra rằng, về lâu về dài, càng thấy ba chọn lựa của “cụ Hồ” mang tính sinh tử với đất nước và dân tộc, đã để lại di sản vô cùng trầm trọng: “chọn chủ nghĩa xã hội của Marx để xây dưng chế độ, chọn chiến tranh xóa hiệp định hòa bình để bành trướng xã hội chủ nghĩa và thống nhất đất nước, chọn Mao và đảng Cộng sản Trung Quốc làm đồng minh, đồng chí”. Sách có 16 chương, một chương chỉ để giải mã lãnh tụ; nhưng ở chương nào HCM cũng được đề cập tới. Ông xác nhận, hễ nói tới thảm kịch VN thì “không thể không nhăc tới ông cụ”. Cố giáo sư quả quyết, ‘phải nói thẳng ra là Mao đã trực tiếp bẻ lái “ông cụ”; và “Trung Quốc muốn nhuộm đỏ Việt Nam theo đúng màu đỏ đậm của Trung Quốc”.
Đãi ngộ hay bạc đãi
Triết gia Trần Đức Thảo (TĐT), nổi tiếng về hiện tượng luận, từng tranh cãi với Jean-Paul Sartre được đảng Cọng Sản Pháp vận động để được cho về xứ nhằm phục vụ cách mạng vì “tôi có những nghiên cưú sâu rộng cuộc cách mạng tháng 10 ở Nga và có vốn hiểu biết vững chắc tư tưởng của Karl Marx”. Khi về tới quê hương “tôi bị vỡ mặt và vỡ mộng”; bị nghi là “siêu gián điệp trí thức”. Tên tuổi ông, một thời danh tiếng trời Âu chìm hẳn. Năm 1991 ông “bị đẩy trở lại Paris”. Thế nhưng, sau khi qua đời ngày 24/4/1993, nhà cầm quyền Hà nội lại truy tặng ông huy chưong Độc Lập; ca tụng ông là nhà triết học lớn của thế kỷ. Họ còn cho rằng “”tư tưởng HCM” đã có ảnh hưởng với nhà triết học số một Việt Nam và lúc sinh thời đảng, nhà nước rất mực trọng đãi ông.
Có thật thế không? Trong chương Đãi ngộ hay bạc đãi, ông nói, những chức vị mà người ta ban cho, “che dấu một đối xử nghiệt ngã và tồi tệ”. Ông cho biết, sự có mặt của ông trong một số sinh hoạt chỉ là “bù nhìn đứng giữa ruộng dưa”. Sự thật “họ chỉ để cho sống; cho tôi khỏi chết đói; chỉ toàn là bạc đãi”. Nhà triết học phân trần, chúng bắt “tôi phải gắng mà học tập nhân dân nghĩa là phải cúi đầu tuyệt đối vâng, nghe lời đảng”. Ông tiết lộ, tuy có chức phó giám đốc trường Đại Học Văn Khoa Sư Phạm nhưng “chưa hề được tham dự bàn bạc gì vào việc tổ chức, điều khiển, ngay cả ý kiến giảng dạy cũng không hề có”. Sự có mặt của ông trong các buổi họp hay đi theo các phái đoàn thanh tra là chỉ để “giới thiệu có thạc sĩ triết bên tây về ủng hộ cách mạng”.
Những điều nói đó phù hợp với bài báo của nhà thơ Phùng Quán Chuyện vui về triết gia Trần Đức Thảo đăng trên báo Tiền phong ngày 11/5/1993: nhờ cái chết của nhà tư tưởng lớn này qua các báo mà rất nhiều người trong nước được biết rằng đất nước chúng ta đã từng sinh ra một triết gia tầm cỡ quốc tế. Ông ta sang tận bên Tây mà chết. Khi sống ở trong nước thì lôi thôi nhếch nhác hơn cả mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cưỡi cái xe đạp “Pơ-giô con vịt” mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc! Mặt cứ vác lên trời, đạp xe thỉnh thoảng lại tủm tỉm cười một mình, một anh dở người”.
Mưu thần chước quỷ
Nhiều người tự hỏi bị đối xử cay đắng như vậy sao “bác Thảo lại hay có lúc bật cười như điên”; và bị chung quanh chê bai, chế giễu “bác là người khùng”? TĐT cho hay, ông bắt đầu “hết cười rồi lại khóc” sau khi tham gia đợt thì hành cải cách ruộng đất ở huyện Chuyên Hóa, tỉnh Tuyên Quang năm 1953. Lương tri trỗi dậy khi thấy lãnh đạo “chọn con đường hành động nặng tính cuồng tín, dã man”. Ông nói, “chẳng thà là thằng khùng hơn làm thằng đểu, thằng ác, thằng lưu manh”. Về giai thoại TĐT đi chăn bò, theo ông, đó là một sự xấu hổ cho cả nước. Làm nhục một trí thức là lối hành xử của một chính quyền man rợ, bị ảnh hưởng Trung Quốc, buộc họ phải học thuộc lòng câu “trí thức không bằng cục phân” của Mao.
Nhà tư tưởng họ Trần nhận xét, Cộng Sản Việt Nam rất sùng bái Trung Quốc, ‘cứ như là con đẻ của đảng Cộng sản Trung Quốc”. Là một nhà triết học, có thói quen tìm hiểu, đánh giá lại, ông thấy “nước ta trồng cây tư tưởng của Marx, cho tới nay cây đó chỉ cho toàn quả đắng”. Chính “cái thực tại tàn nhẫn khi chứng kiến sự đau khổ của con người bị kềm kẹp bởi ý thức hệ” khiến ông muốn “đặt lại vấn đề từ học thuyết”. Triết gia TĐT nói, nhiều lãnh tụ “từ lầu đài tư tưởng Marx bước ra đã trở thành những ác quỉ”. Theo ông, “quỉ ấy là ý thức đấu tranh giai cấp”; là thứ “vi rut” tư tưởng độc hại vô cùng; nó phá hoại xã hội, nó thúc đẩy con người đam mê tìm thắng lợi, bằng đủ thứ quỉ kế, để mưu đồ củng cố cho chế độ độc tài, độc đảng.
Theo nhà triết học số một của Việt Nam, “ông cụ” là một nhà ảo thuật chính trị đại tài: lúc thì biến có thành không, lúc thì biến không thành có”. Đúng là “mưu thần chước quỉ” chuyên hành động muôn hướng, muôn mặt, “trí trá còn hơn huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!” Bác Hồ đánh lừa dư luận Âu Mỹ, khi chép lời nói đầu bản tuyên bố độc lập của Mỹ; đánh lừa các đảng trong nước khi thành lập chính phủ đại đoàn kết và mời cựu hoàng Bảo Đại làm cố vấn. Vài tháng sau, Võ Nguyên Giáp dẹp bỏ; coi họ là phản động; đẩy Bảo Đại sang Côn Minh. “Ông cụ” còn được triết gia TĐT gọi là một nhà chính trị “thần sầu quỉ khốc” khi “ông cụ” khôn khéo mưu tìm sự tiến cử của Mao để được đưa về xứ làm lãnh đạo duy nhất phong trào cách mạng Việt Nam.
Cố Giáo sư TĐT kể lại rằng, biết mình bị Đệ Tam Quốc Tế tức Liên Sô loại đuổi khéo về Viễn Đông và biết Mao là thủ lãnh các phong trào cộng sản ở Châu Á, “ông cụ” vào làm việc cho Bát Lộ Quân, tuyên thệ gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc; được Mao rất ưu ái. Nhờ vậy, “ông cụ” từng bước loại bỏ tất cả đối thủ Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn văn Cừ… để rồi vươn lên làm Tổng Bí Thư kiêm chủ tịch nước năm 1945. Dù sự tấn phong “ông cụ” ở các đại hội Ma Cao và Hồng Kông bị phản ứng của các khu uỷ, xử uỷ và của “Đê Tam” nhưng nhờ Mao dàn xếp nên đã qua mặt những sự phản đối này vì họ là những kẻ đã từng nhận được sự nâng đỡ của cộng sản Trung Quốc. Triết gia họ Trần nói thêm, “ông cụ” luôn luôn là người biết chụp bắt cơ hội”.
Huyền thoại “bác Hồ”
Vẫn theo nhà tư tưởng TĐT, các nhà nghiên cứu nước ngoài khi viết về HCM họ bị chói lòa bởi những huyền thoại về “ông cụ” của bộ máy tuyên truyền; họ xử dụng sản phẩm chính thống của đảng thì làm sao họ hiểu hết được mặt thật của họ Hồ. Ông nói, có một thứ tư liệu rất chính gốc, bộc lộ rõ cái cuồng vọng lãnh tụ của “ông cụ”; nó chi phối từ nội tâm. Đó là những tên giả chính “cụ Hồ” đã tự đặt cho mình. Muốn tìm hiểu cặn kẻ, phải phân tách những chuyện biến tư tưởng qua từng giai đoạn đổi tên, đổi họ; từ những cái tên “Tất Thành”, rồi “Vương”, rồi là “Ái Quốc”, chót hết là “Chí Minh”. Đấy là những biểu hiện của một thứ bệnh tâm thần, khao khát danh vọng. HCM chỉ thành lãnh tụ cách mạng sau khi không được cho vào học Trường Thuộc Địa để ra là quan.
Nhà triết học nói thêm rằng, một người tự viết sách đề cao mình, như cuốn “Những mẩu chuyện về cuộc đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Vừa đi đường vừa kể chuyện” thì không thể là một người vì nước vì dân được. “Ông cụ” đã tạo ra một thời chính trị điên đảo. Ngoài ra, đám quần thần chung quanh “ông cụ”, không tha thứ cho ai dám tỏ ra ngang hàng với “Người”. Họ tôn vinh “ông cụ” làm bác, làm cha dân tộc. Tạ Thu Thâu chết mất xác vì câu nói “ngoài bắc có cụ, trong nam có tôi”. TĐT cho biết, năm 1946 gặp “ông cụ” trong một buổi chiêu đãi ở Paris, ông đã bất ngờ trước lời khước từ: “cách mạng chưa cần tới chú đâu” của HCM; khi ông tự ý nắm tay “ông cụ” ngỏ lời: “Tôi muốn về nước cùng cụ xây dựng thành công một mô hình cách mạng tốt đẹp tại quê hương”.
Dù thế, triết gia vẫn nhờ bạn bè phương tây giúp ông được về nước tham gia kháng chiến. Nhờ vậy, ông có cơ hội quan sát một Hà nội và Sài Gòn đang bị lột xác theo sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Một giai cấp thống trị mới đang hình thành. Càng quan sát nhà tư tưởng TĐT càng thấy huyền thoại về “bác Hồ” là tác phẩm của “cả một công trình nghệ thuật hóa trang cao độ”. Cái gì có giá trị là của bác, của đảng. Họ công kênh “ông cụ” lên làm bậc thần, bậc thánh. Theo TĐT, “phải hít thở cái không khí” thờ kính, phục tùng lãnh tụ mới có thể hiểu phần nào những “phương pháp tâm lý tinh vi” tôn sùng HCM. Ông nhấn mạnh, “bác Hồ” chỉ có thể coi như mẫu mực thành đạt về chính trị; “không thể nào là mẫu mực về mặt đạo đức”; vì cách sống muôn mặt của bác đâu phải là gương sáng.
Nhà triết học bị kết tội “cầm đầu âm mưu chống đảng” vì hai bài viết trên Nhân Văn Giai Phẩm (NVGP), do một số anh em văn nghệ trẻ chủ xướng. Ông cho biết, nếu không có mấy nhà trí thức Pháp đứng đầu là Sartre “tận tình quan tâm, chăm sóc” đến ông thì với mấy tội: tự ý nắm tay bác năm 1946 đòi cùng về nước làm cách mạng; từ chối lên án bố mẹ khi khai lý lịch; muốn đấu lý với cố vấn Trung Quốc lúc làm đội viên cải cách ruông đất và vụ NVGP, ông có thể “dễ chết như chơi”. Năm 1952 triết gia được dẫn đi chào “Bác”. Ban lễ tân dặn ông bốn điều cần nhớ: phải đứng xa “Người” ba mét, chỉ lại gần khi “Người” ra lệnh; không được nói leo, chỉ trả lời câu hỏi; không được chào trước; không được nói tôi phải xưng bằng cháu, gọi “Người” bằng “bác.
Chư hầu ngoan ngoãn
Theo sự chiêm nghiệm của triết gia TĐT thì HCM chưa đọc kỹ học thuyết sách vở của Marx, “tư duy sổi nên chưa tiêu hóa được”; nhưng lại “đọc thuộc lòng cuốn “Le Prince” của Machiavel”, cuốn chỉ bày tận dụng mọi thứ để người ta sùng bái. “Ông cụ” luôn luôn chứng tỏ một bề ngoài nặng lý trí đến vô cảm; không thiết tha với gia đình; không có bạn hữu thân tình. “Ông cụ” rất ghét cánh Tây học. Trong vòng thân cận, chỉ có toàn hầu cận ít học được ”ông cụ” đào tạo để phục tùng; rồi sau đề bạt lên làm lớn. “Ông cụ” làm thơ là “do cuồng vọng chính trị”, là để “ca ngợi mình" và “hô hào quyết chiến”. Nhà triết học này còn cho rằng, trên thân phận HCM có một bóng ma quái nó đè. Đó là “ bóng ma đế quốc bành trướng vô cùng độc đoán, lấn át của Mao.”
Vẫn theo TĐT, ý thức hệ xã hội chủ nghĩa chỉ là một phương cách giam hãm các dân tộc chư hầu với cái tên đẹp “khối các nước xã hội chủ nghĩa anh em” nhưng thực chất là một đế quốc đỏ; nó kềm kẹp các dân tộc nhược tiểu quanh nó. Đó “chỉ là thứ liên minh ma quái, quỉ quyệt, giả dối”; muốn biến “nước ta thành một chư hầu ngoan ngoãn”. “Ông cụ” vì tham vọng quyền lực từ ý chí muốn học ra làm quan nhưng không được nên đã lấy học thuyết “giai cấp đấu tranh” làm kim chỉ nam để tạo cơ hội thành danh, thành lãnh tụ. Nhà triết học nói, để nắm vững quyền lực “ông cụ” phải thủ vai ông thánh, ông thần”, từ bỏ cả vợ con, mất đi tính người, thẳng tay tiêu diệt những kẻ có tài. Lại thêm, Mao đã cài chung quanh “ông cụ” một đám cực kỳ cuồng tín.
Trong chương “Hai chuyến di chuyển đổi đời” của cuốn sách, nhà triết học họ Trần cho biết, ông được rời cảnh “sống như bị giam lỏng ở Hà nội” để vào Sài Gòn ở là nhờ sự vận động của một số đồng chí trí thức Nam Bộ. "Sài Gòn đã làm tôi bàng hoàng tới cùng cực. Khang trang và hiện đại; đâu có đói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp. Miền Nam đã có một mức độ dân chủ rõ rệt. Miền bắc bị tư tưởng Mac-Lenine làm nẩy sinh những chính sách đầy sai lầm. Sĩ quan của "bộ đội cụ Hồ” đã có “thái độ thô bạo, ứng xử thô bỉ” khi nhục mạ, gọi Dương văn Minh là mày, và bắt cả nhóm phải đứng cúi đầu." Đấy là những lời thố lộ của TDT mà nhà văn Tri Vũ Phan Ngọc Khuê đã viết lại qua các cuốn băng thu những điều ông tâm sự với một số bạn trong sáu tháng cuối đời ông ở Paris.
Nhà triết học còn thú nhận Trần Dần và Trịnh Công Sơn là hai người đã thúc đẩy ông phải thoát khỏi thái độ hèn nhát đã ngự trị trong đầu óc trí thức và văn nghệ sĩ Hà nội; giới này đã ứng xử đồng lõa với tội ác của cách mạng. Người thứ nhất là Trần Dần lúc ông ta mời viết cho NVGP. Người thứ hai là các bài hát của họ Trịnh. Ngoài ra, những ai từng sống ở Sài Gòn sau 1975, nếu đọc chương “Vẫn chưa được giải phóng” đều nhận thấy những mô tả của triết gia về Hà nội năm 1954 rất giống Sài Gòn sau 30/4/75: “cả con người và xã hội ở đây đã không hề được giải phóng” và thật là “vô lý và nhục nhã” khi so sánh với chế độ cũ. Ông nhận xét: tư hữu kiểu cũ do làm cần cù, tích lũy mà có được; tư hữu kiểu mới do chiếm đoạt bằng chữ ký và quyền lực.
Cao vọng hơn “bác Hồ”
Được gợi hứng bởi môi trường miền Nam, trong vòng 10 ngày TĐT hoàn thành một tập sách nhỏ “Con người và chủ nghĩa lý luận không có con người”. Đây là văn bản phản bác giáo điều, được đón nhận như một bông hoa lạ. Chẳng bao lâu sách bị cấm phổ biến. Giới cựu kháng chiến và nhiều trí thức khác còn ở lại trong nước tấp nập tới làm quen với nhà triết học để nghe những “lời tiên tri” là “cách mạng đã biến chất để tư bản man rợ tràn ngập”. Trung Ương thấy số người “phức tạp” đến gặp “bác Thảo” càng ngày càng đông, nên Đảng đã quyết định “anh phải ra đi”. Nhà triết học than “thôi thì đành mang thân xác ra xứ người”. Qua Pháp, tuy đã một thời vang danh ở Paris, ông vẫn “lâm cảnh sống nay lo mai”, và còn bị Toà đại sứ theo dõi kiểm soát chặt chẽ.
Trong cài xui có cái may. Nhà văn Tri Vũ-Phan Ngọc Khuê nhờ những lúc nhà triết học bán chữ để kiếm sống qua các buổi thuyết trình ở kinh đô ánh sáng mà đã làm quen thân với ông, được nghe ông tâm sự. Quyển sách ghi lại nỗi hối hận đã thiêu đốt ông vào lúc hoàng hôn của cuộc đời. Nhà văn cho hay ông “sẵn sàng trao mấy cuốn băng cho những ai muốn nghiên cứu về TĐT”. Trong sách nhà triết học có lần đã khẳng định: “tôi có tham vọng cao hơn của “bác Hồ” nhiều lắm”. Đấy là xây dựng “một lâu đài tư tưởng trong đó toàn thể nhân loại đều thể hiện rõ quyền sống của mình, quyền dân chủ bằng lá phiếu của mình”. Nhưng mộng đó không thành, triết gia lừng danh một thời trời Âu bị đột tử. Chúng ta mất đi “một kho tàng trải nghiệm về chiến tranh, về cách mạng”.
Người chủ trương Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích cho biết việc tái bản cuốn sách là để phục hồi danh dự một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam. Trong lời bạt ông viết, “cuộc đời TĐT xem như cuộc đời tan nát vì “cách mạng” mà ông chọn phục vụ vào năm 1951 nên mọi sự trở nên vỡ lở. Cuộc đời đó có thể xem như một bài học –“an object lesson”- với những ai để cho tình cảm, lý tưởng che mờ đi lý trí, kinh nghiệm. Không những ông mất vợ, không có đời sống gia đình, không có tự do trong bóng tối làm những việc ông muốn làm cho quê hương đất nước của ông. Sự nghiệp triết học của ông là một sự nghiệp dang dở." Sách được xuất bản lần đầu với số lượng ít; tên gốc là Nỗi hối hận lúc hoàng hôn chỉ để thăm dò ý kiến thân hữu.
Những ai yêu “bác Hồ”, những ai coi HCM là tên tội đồ hay các nhà khoa bảng, các học giả, các ông bà phản chiến và những ai còn nghĩ đến nước Việt nên đọc cuốn này. Cho tới nay chưa có tác giả nào trên thế giới - ngoại trừ triết gia TĐT- nêu ra được, thật sáng tỏ, những điều vô cùng bi thảm trong thời cách mạng; vì ông đã trải nghiệm 40 năm trong cuộc. Ngoài ra, ông bà nào giỏi tiếng Tây tiếng Mỹ nên dịch sách ra cho thế giới biết thêm về HCM, kẻ đã lừa mọi người từ Âu sang Á; khiến nhà tư tưởng số một Việt Nam TĐT phải nói thẳng rằng, Napoléon, Hitler cũng có tâm thức tự cao tự đại nhưng “không gian trá đến mức tinh quái” để có những “hành động muôn hướng, muôn mặt, trí trá còn hơn cả huyền thoại Tào Tháo trong cổ sử Trung Quốc!”.
Saint Paul, 6/2014