http://danchutudo.blogspot.com/2006/04/th-ca-thng-tng-nguyn-nam-khnh-gi-b_17.html
Thư của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh gửi Bộ Chính Trị về vụ Tổng Cục 2
Đêm
10/7, vào lúc 21 giờ 30 phút, hơn 10 công an thuộc bộ công an và sở
công an Hà Nội đã bất ngờ đến nhà ông Lê Hồng Hà khám nhà. Họ nói rằng
họ nhận được thông tin ông Lê Hồng Hà đang lưu giử một tài liệu mới được
tung ra của Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh. Tuy nhiên sau hai giờ lùng
sục khắp nhà, họ không tìm được tài liệu đó. Điện Thư xin trân trọng gửi
đến qúy đọc giả số đặc biệt dưới đây, đăng lại tài liệu mà công an Hà
Nội đang ngày đêm truy lùng.
----- O -----
(Lời Nói Thêm: Thượng tướng hồi hưu Nguyễn Nam Khánh, quê Quảng Ngãi, tác giả bức thư
mà chúng tôi muốn giới thiệu cùng đồng bào, là một vị tướng từng giữ
các chức vụ cao trong quân đội (cục phó Cục Tuyên huấn, chủ nhiệm chính
trị Quân khu 5, phó chủ nhiệm kiêm bí thư Đảng uỷ Tổng cục Chính trị
QĐNDVN), là người rất gần gụi với các tướng Chu Huy Mân, Lê Khả Phiêu,
Đoàn Khuê, và cả Lê Đức Anh. Vào thời ấy ông được coi là người thuộc phe
Lê Đức Anh đầy quyền uy, trong khi hai tướng Đặng Vũ Hiệp, Lê Hai, cũng
là phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị thì bị coi là thân tướng Giáp thất
thế). Bức thư của ông để lộ những tình tiết cụ thể về một vụ án nguỵ tạo
chết người mang tên T4 do Tổng cục 2 dựng nên vào những năm cuối cùng
của thế kỷ trước, đã phơi bày rõ ràng sự rạn nứt không hàn gắn nổi trong
ĐCSVN vì quyền lợi của những phe nhóm. Ban lãnh đạoĐCSVN hết hồn khi
biết bức thư gửi cho họ đã bị lọt ra ngoài. Cuộc khám xét vào ban đêm
10.7.2004 tại nhà ông Lê Hồng Hà, nguyên chánh văn phòng Bộ Công an, để
tìm ra và thu hồi bức thư, chứng tỏ sự hốt hoảng của họ. Tướng Khánh
không lên án chế độ độc tài, ông không phải người đấu tranh cho dân chủ.
Bức thư của ông chỉ cho ta thấy một hiện tượng: những ấm ức bị dồn nén
ngay trong hàng ngũ những công thần của Đảng nay bắt đầu bộc lộ, mà khởi
đầu là bức thư gửi Trung ương Đảng của đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Hà Nội, ngày 17/6/2004
Kính gửi:
Ban Chấp hành Trung ương đảng
Đồng chí Tổng bí thư và các đồng chí uỷ viên
Bộ Chính trị, uỷ viên Ban Bí thư
Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá 9
Đồng chí Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương khoá 7, khoá 8
Thưa các đồng chí,
Vụ
T4 và các vấn đề của Tổng cục 2 vừa qua đã diễn ra rất nghiêm trọng từ
vụ Sáu Sứ (Khoá 6) tiếp đến các vụ khác rất nghiêm trọng trong Khoá 7,
Khoá 8 và Khoá 9 hiện nay Nhưng chưa được làm rõ những sai phạm đó và xử
lý nghiêm khắc một số lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục 2. Tình hình ấy đang
làm cho nhiều đảng viên lo lắng về sự trong sạch vững mạnh của Đảng ta.
Đầu
tháng 7/2004, Trung ương sẽ họp lần thứ 10. Tôi thấy cần thiết viết thư
gửi Ban chấp hành Trung ương, đồng chí Tổng bí thư, Bộ Chính trị, Uỷ
ban Kiểm tra Trung ương và Ban Bí thư về vấn đề T4 và các vấn đề của
Tổng cục 2 vừa qua.
Vụ án T4 là một vụ án chính trị đặc biệt
nghiêm trọng. Trước đây, trong kháng chiến chống Mỹ, Cục 2 đã đóng góp
nhiều thành tích và có truyền thống tốt đẹp. Nhưng hai chục năm nay, có
thể nói, từ khi bị khống chế và tự nguyện thực hiện những âm mưu vu
khống, Cục 12 (Tổng cục 2) và các lãnh đạo Tổng cục 2, kể từ vụ Xiêm
Riệp (năm 1983) và liên tiếp các vụ sau này, đã phạm những sai lầm rất
nghiêm trọng và có hệ thống.
Tôi được các Đại hội Đảng bầu vào
Ban Chấp hành Trung ương khoá 5, khoá 6, khoá 7, được Bộ Chính trị chỉ
định làm phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị và sau đó được phân công theo
dõi một số vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ. Với trách nhiệm của mình, tôi
được hiểu biết tình hình nói chung và tình hình Đảng bộ Quân đội nói
riêng, đã tham gia sự lãnh đạo chung của Đảng và sự lãnh đạo tư tưởng,
tổ chức, bảo vệ chính trị nội bộ Đảng Quân đội. Trước hết tôi xin trình
bày những đièu tôi đã biết với các đồng chí về Tổng cục 2, vụ T4 và các
vụ án khác quan hệ đến Tổng cục 2 để góp phần làm sáng tỏ thêm sự thật
và tính chất nguy hại có hệ thống và rất nghiêm trọng của các đồng chí
lãnh đạo Tổng cục 2, kể từ khi đồng chí Tư Văn và Vũ Chính, Nguyễn Chí
Vịnh nắm cương vị lãnh đạo Tổng cục.
I. Vụ Xiêm Riệp năm 1983
Nguyên
nhân dẫn đến vụ Xiêm Riệp (năm 1983) là do cục 12 trước thuộc Cục 2 đã
dựng tài liệu, chứng cứ không có thật, dựa theo tin địch, vu oan cho
nhiều cán bộ bạn, dùng nhục hình, tra tấn, mớm cung, bức cung, gây ra
những đau đớn oan ức cả tinh thần và thể xác cho cán bộ bạn, có đồng chí
là cán bộ cao cấp của Đảng bạn phải tự sát, gây hậu quả cực kỳ nghiêm
trọng. Vụ này, không phải là do một cán bộ (Mạc Lam) mà là từ lãnh đạo
của cục 12 (Tư Văn, Vũ Chính). Hồi đó, đồng chí Lê Đức Anh làm trưởng
đoàn chuyên gia tại CamPuChia. Do nhiều nguyên nhân, trong đó có ý kiến
của đồng chí Lê Đức Anh, nên số cán bộ lãnh đạo của Cục 2 không bị xử lý
mà chỉ thi hành kỉ luật đồng chí Mạc Lam, một trợ lý, và tập trung
khuyết điểm vào đồng chí Hoá, Tư lệnh phó, Tham mưu trưởng 719 và đồng
chí Thanh, Tư lệnh mặt trận 419.
Đến nay, nhiều đồng chí cán bộ
cấp cao, các cán bộ tham gia công tác ở CamPuChia vẫn tiếp tục có ý kiến
về vụ Xiêm Riệp, cả đối với các đồng chí lãnh đạo cục 2 và đồng chí Lê
Đức Anh.
II. Vụ Sáu Sứ năm 1991 (vào cuối khoá 6, trước thềm đại hội VII
Trước
Đại hội 7, tâm trạng cán bộ, cả phía Nam và phía Bắc có nhiều lo lắng,
băn khoăn về nhân sự cấp cao của Đảng, nhiều cán bộ không vừa lòng một
số đồng chí trong Bộ Chính trị Khoá 6. Nhiều ý kiến muốn thay đổi một số
Uỷ viên Bộ Chính trị. Trong đó dư luận tập trung không đồng tình đồng
chí Lê Đức Anh. Đặc biệt thắc mắc đồng chí Lê Đức Anh mấy điểm :
- Về lý lịch, đồng chí Anh khai xuất thân là công nhân là không đúng
- Về ngày vào Đảng đồng chí Lê Đức Anh khai không đúng.
-
Có một trận phục kích quân Pháp, trong đó có tên chủ đồn điền Pháp (đồn
điền mà đồng chí Lê Đức Anh làm công chức) đồng chí Lê Đức Anh là người
chỉ huy đại đội phục kích, không cho nổ súng. Nhờ đó bọn quân Pháp và
cả tên chủ đồn diền (chủ cũ của đồng chí Lê Đức Anh) thoát chết
- Thái độ đối với bà vợ trước, đồng chí Lê Đức Anh có thái độ xử sự không đúng tình nghĩa.
Như
đồng chí Trường Chinh (được bầu làm Tổng bí thư sau khi đồng chí Lê
Duẩn mất) nói : việc cán bộ trung cao cấp và cả nhân dân quan tâm đến
nhân sự cao cấp của Đảng là điều bình thường, nhưng trước tình hình đó,
Cục 2 được một sự chỉ đạo nào đó, đã tổ chức, dàn dựng ra vụ Sáu Sứ một
cách bài bản, công phu, cấp xe, cấp tiền cho Sáu Sứ ra Hà Nội và trực
tiếp chỉ đạo Sáu Sứ gặp một số lãnh đạo, cựu chiến binh, tìm cách khêu
gợi và bí mật ghi âm, tất cả 16 cuốn.
Bộ Chính trị khoá 6 tổ chức
cho chúng tôi nghe các băng ghi âm đó. Tôi nghe phần nhiều là lời Sáu
Sứ và nhiều đoạn ồm ồm không nghe rõ.
Vụ này Cục 2 đã nguỵ tạo
tài liệu, dựng chứng cứ giả, nặn thêm tình tiết, làm cho dư luận ngộ
nhận là có thật, đánh lừa Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban chấp hành Trung
Ương, thực chất là vu khống đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí TrầnVăn
Trà, để thanh trừng nội bộ, hãm hại đồng chí. Nhiều đồng chí trung thực
như đồng chí Nguyễn Đức Tâm, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công,
Nguyễn Thanh Bình …và nhiều đồng chí Uỷ viên Trung ương cũng bị những
tin tức đó đánh lừa.
Sự vu khống ấy đã dẫn đến sự phân tâm trong
Đảng, trong cán bộ Quân đội, ảnh hưởng rất xấu cho đến ngaỳ nay, gây đau
khổ, phẫn uất cho nhiều cán bộ cao cấp trong và ngoài Quân đội.
III. Vụ T4 là một vụ án chính trị đặc biệt nghiêm trọng
1)
Tổng cục 2 đã làm một việc hết sức nghiêm trọng là bịa đặt ra một tên
có bí danh là T4, đặc tình của Tổng cục 2 nằm trong CIA để đưa tin vu
khống chính trị nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao và nhiều cán bộ khác của
Đảng và Nhà nước với hàng trăm bản tin (không kể báo cáo miệng)
2)
Nội dung vu khống chính trị là đưa tin CIA đã nắm được hoặc CIA đã tiếp
cận được, đã cho người liên hệ, đã chỉ đạo các đồng chí Võ Nguyên Giáp,
Võ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Lê Khả Phiêu, Mai Chi Thọ, Trương Tân Sang,
Võ Trần Chí, Bùi Thiện Ngộ, Trương Vĩnh Trọng, Phạm Gia Khiêm, Võ Thị
Thắng, Vũ Quốc Hùng, Nguyễn Khánh Toàn (Thứ trưởng Bộ Công An), Phan
Diễn, Lê Văn Dũng, Phan Trung Kiên, Võ Viết Thanh, Đoàn Mạnh Giao.
Vu khống cả một số tướng lĩnh trung thành và kiên cường chiến đấu trong kháng chiến, vu khống cả bản thân tôi.
Các
đồng chí đã có các bản tin của Tổng cục 2. Đề nghị các đồng chí đọc kỹ.
Đối với tôi (Nguyễn Nam Khánh) và đồng chí Nguyễn Huy Chương, Uỷ viên
Trung ương Đảng, đồng chí anh hùng Thượng tướng Nguyễn Chơn, Uỷ viên
Trung ương Đảng, bản tin Tổng cục 2 đưa tin lên lãnh đạo cấp cao :
"Từ
trung tâm CIA cho hay: Trong mười ngày gần đây vợ chồng Trần Quốc
Thuận, Võ thị Thắng đã tạo ra những liên kết trong bộ máy bảo vệ nền
chuyên chính vô sản, đã gặp gỡ thân tình với một số cựu chiến binh thủ
cựu trong Đảng, đó là Trung tướng Nguyễn Huy Chương, Thượng tướng Nam
Khánh, Thượng tướng Nguyễn Chơn. Qua lại ăn cơm vói tướng Khánh, tướng
Chơn. Hai người này úy lạo mặt tư tưởng cho tướng Khánh, tướng Chơn,
phát động một số phong trào kêu gọi cựu chiến binh Mặt trận cấp tiến.
Đồng thời gây sức ép với ông Lê Khả Phiêu về một số đòi hỏi của cựu
chiến binh. Nhân dịp kỉ niệm 210 năm ngày Quang Trung đại phá quân Thanh
họp bàn bên lề kỉ niệm Quang Trung thành một buổi chất vấn về những yêu
sách của cựu chiến binh khu vực miền Trung. Cặp vợ chồng Thuận- Thắng
đang đà thuận tiện con đường đi sâu vào nội bộ Quân đội và Tổng bí thư
Lê Khả Phiêu qua hai vị tướng này"
(Bản tin ngày 7/2/1999)
Về đồng chí Võ Nguyên Giáp
Tổng cục 2 đưa tin : (chỉ trích một số).
“Sau
Đại hội 8, CIA chỉ đạo nhóm Z (tức là nhóm Giáp) chủ trương xúc tiến
vận động cả quan điểm, tư tưởng và tổ chức nhân sự, lợi dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh để loại bỏ chủ nghĩa Mác- LêNin, tách tư tưởng Hồ Chí Minh với
tư tưởng Mác – LeNin, tạo ra phong trào "dân tộc dân chủ"
(bản tin số 49/96TR ngày 7/7 /1996)
"Ngày 12/7/1997, tại một địa điểm phía Bắc, đại diện CIA Mỹ đã phổ biến chủ trương của Mỹ và Pháp lôi kéo ông Võ Nguyên Giáp
"Hiện
nay theo yêu cầu của CIA thì ông Giáp vẫn đang ngấm ngầm hoạt động,
nhất là sau khi có thông tin về cuộc gặp riêng giữa ông và Mac Namara
trong cuộc hội thảo "Những cơ hội bị bỏ lỡ", Tại cuộc gặp riêng này, mặc
dù có phiên dịch tiếng Anh, nhưng hai bên đã không dùng tiếng Anh mà
dùng tiếng Pháp (vì Mac Namara cũng biết tiếng Pháp). Mac Namara mời ông
Giáp sang Mỹ dự hội thảo về "Sự kiên Vịnh Bắc Bộ " để phân biệt ai đúng
ai sai. Ông Giáp đã trả lời: "Thời cơ chưa chín muồi".
CIA phân tích: " ông Giáp còn phải chuẩn bị dư luận dọn đường ở trong nước rồi mới đi Mỹ”
(Bản tin số 167/TR ngày 17 /7/1977)
"Ông
Giáp chuẩn bị công bố cho học thuyết của mình (chỉ đạo ông Giàu viết
cuốn sách Chủ nghĩa Hồ Chí Minh). Thông qua việc trả lời phóng viên Nhật
Bản, ông Giáp đã đưa ra "Chủ nghĩa Xã hội Nhân văn”, kích động tư tưởng
về một đợt sóng ngầm, bí mật thành lập "Mặt trận cứu nguy dân tộc"
(Bản tin số 212/97/ TR ngày 10/9/97)
Tổng cục 2 đưa tin về đồng chí Phạm Văn Đồng
“Sáng
05/9/97, Phạm Văn Đồng đã mời một số Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương
khoá 4, khoá 5, yêu cầu những người này đứng ra vận động các Uỷ viên Bộ
Chính trị, cán bộ đã về hưu chủ yếu là tướng lĩnh Quân đội yêu cầu thay
đổi các đồng chí chủ chốt hiện nay.
(Bản tin số 212/97/TR ngày 10/9/97)
Tin về đồng chí Phan Văn Khải
“Thời
kỳ Phan Văn Khải làm Chủ Tịch Thành Phố, Charles Đức (là người được tên
CIA Nguyễn Ngọc Huy, bí thư Đảng Tân Đại Việt đánh về miền Nam năm 1973
và phong cho làm Trung ương uỷ viên Phong trào Quốc gia Cấp tiến), đã
dùng chuyên cơ đưa Phan Văn Khải đi tham quan các nước Đông Nam Á. Khi
biết Phan Văn Khải được đề bạt ra Trung Ương, Charles Đức hết lòng cung
phụng cho Phan Văn Khải”.
(Bản tin ngày 10/5/1999)
Tin về đồng chí Trương Tấn Sang
"CIA
có nguồn tin từ quốc nội cho hay Bộ Chính trị sẽ loại trừ Trương Tấn
Sang sau khi ông ta tổ chức thành công lễ kỷ niệm Sài Gòn 300 năm theo
chủ nghĩa dân tộc. Hồ sơ của Tư Sang đã được CIA chuẩn bị cho một vị trí
lãnh đạo của phe đối lập trong trường hợp ông ta ra khỏi Bộ Chính trị …
CIA hy vọng về sự thành công của Tư Sang trong vai trò lãnh đạo phe đối
lập …
(Bản tin ngày 25/12/98)
“Nhóm Trương Tấn Sang
đang có kế hoạch tác động, móc nối lôi kéo để liên kết ông Ngô Xuân Lộc,
Nguyễn Khánh Toàn và một số tướng lĩnh Quân đội và Công an, giao chúng
nắm giữ các vị trí quan trọng trong Chính phủ Việt Nam từ địa phương đến
Trung ương.
(Bản tin số 497 ngày 24/3/99)
"Các chuyên
gia CIA nhận định một cuộc đảo chính có thể xảy ra vào tháng 7, tháng
8/1999 ở Việt Nam. Vai trò chủ chốt là Trương Tấn Sang và Trần Văn Tạo.
"Tư
Sang, Tư Tạo tập trung thu phục phái tù Côn Đảo ở Thành phố Hồ Chí
Minh. Phái này có khả năng trở thành phe phái hợp pháp đối lập trong
Đảng Cộng sản, lấy địa bàn Sài Gòn làm căn cứ".
“Đã có sự liên kết
mới giữa Ngô Xuân Lộc, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Khánh Toàn, Đoàn Mạnh
Giao, Lê Vân Dũng, Phan Trung Kiên, Nguyễn Văn Rop. Việc đảo chính của
phe nhóm này sẽ tập trung vào kỳ họp 2 Quốc hội".
(Bản tin ngày 2/8/1999)
"Tối
06/1/99 có một cuộc họp do Tư Sang tổ chức, tham dự có Võ Trần Chí, ông
Đặng (giám đốc sở công nghiệp). Ba Ngộ và một nhân vật bí hiểm … Nội
dung cuộc họp: Bàn mọi cách bảo vệ vị trí Bí thư thành uỷ cho ông Sang,
bằng mọi cách lôi kéo vây cánh để cô lập ông Lê Khả Phiêu và tiến tới
thay ông Lê Khả Phiêu bằng một hội nghị bất thường vì ông Phiêu không
ủng hộ Thành uỷ và ông Tư Sang.
“Có một sự mưu tính từ một số phe
phái chính trị. Trong Đảng Việt Nam đang mưu tính một cuộc cải cách
chính trị, đảo chính chính trị. Có những kế hoạch tuyệt mật trên cơ sỏ
báo cáo của Quốc nội do CIA gửi Văn phòng An ninh, Tổng thống. Phe phái
chính trị này dự tính sẽ lôi kéo cả ông Lê Khả Phiêu và Phan Văn Khải
đứng về phía họ …Lúc bấy giờ Phan Văn Khải và Lê Khả Phiêu cũng phải
theo họ vì không còn con đường nào khác. CIA đã chỉ đạo sẽ thực hiện kế
hoạch.
(Bản tin số 223 ngày 19/1/98)
Tin về đồng chí Võ Viết Thanh
“Nguồn
tin từ trong đội ngũ cấp cao cho hay ông Võ Viết Thanh đang thông qua
một số nhân vật trung gian thân Mỹ để móc nối xin tị nạn chính trị trong
sứ quán Mỹ hoặc đi ra nước ngoài".
(Bản tin ngày 7/2/1999)
Tin về đồng chí Năm Xuân (Mai Chí Thọ)
"Charles Rey, Tổng lãnh sự Mỹ ở Thành Phố Hồ Chí Minh đến nhà riêng gặp anh Năm Xuân.
Đây
cũng là một hiện tượng không bình thường, ta chưa rõ nội dung cuộc gặp
này. Những vụ án ta gọi là kinh tế, đàng sau đều có dính đến chính trị”.
(Bản tin ngày 5/10/1999)
Từ vụ Sáu Sứ, Cục 2 (hồi đó cục 2 chưa được mang tên là Tổng cục 2) đã có báo cáo "Cảnh báo nhóm Mai Chí Thọ sẽ tiến hành đảo chính"
Tin về đồng chí Võ Thị Thắng
“Nhằm
áp đảo những người tố cáo mình, bà Võ Thị Thắng đã tìm cách kết thân
với nhiều cán bộ chủ chốt ngành Công An, Nội Chính, Kiểm tra Đảng, Bảo
vệ Chính trị Nội bộ.
Bà Thắng là người tình của Nguyễn Khánh Toàn, thứ trưởng Bộ Công An.
(Bản tin số 218 ngày 21/1/1999)
"T4
tiết lộ Võ Thị Thắng trước đây đã được Phủ Đặc uỷ tháo răng hàm trên
(răng cửa) để thay vào đó răng giả đặc biệt được sử dụng khi cảm thấy
hiểm nguy, có thể cắn vỡ răng này sau khi dùng lưỡi đẩy rơi ra, là một
liều thuốc độc cực mạnh có thể giúp các điệp viên tự sát. "
(Bản tin ngày 21/3/1999)
Tin về đồng chí Vũ Quốc Hùng
“CIA
đã cho ngươi móc nối Vũ Quốc Hùng vì thấy Vũ Quốc Hùng là Uỷ viên Trung
ương Đảng, có thể được Nguyễn Văn An và một số lão thành giới thiệu vào
Bộ Chính trị".
"Hùng đã cho người có quan hệ với CIA biết tin :
Phương án định đồng chí Lê Khả Phieu làm Tổng bí thư là không còn, thay
vào đó chắc chắn là Nguyễn Văn An (CIA đã nắm được tin này)"
(Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/1997)
Tin về đồng chí Phan Diễn
"Phan Diễn có quan hệ phức tạp với một số người Hoa trong nhóm tình báo Trung Quốc. Đề nghị lãnh đạo thận trọng".
(Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/1997)
Tin về đồng chí Nông Đức Mạnh
“Có
tin đồn đồng chí Nông Đức Mạnh kết nghĩa với Minh Phụng. Tăng Minh
phụng đã từng phục vụ cho đồng chí Mạnh và khi y bị bắt, đồng chí Mạnh
tỏ ra không đồng tình. "
(Bản tin số 352/97/TR ngày 17/12/1997)
Tin về đồng chí Nguyễn Minh Triết
“Đồng
chí Triét vẫn tỏ ra tin tưởng Trần Bạch Dằng. Đồng chí Triét nói : anh
Trần Bạch Đằng là Thủ trưởng của tôi mà còn bị nghi ngờ. "
(Bản tin số 351/97/TR ngày 17/12/97)
Tin về đông chí Trần Tiến Cung (Thiếu tướng Tổng cục phó Tổng cục 2)
"Trần Tiến Cung cũng là người quan hệ chặt chẽ với nhóm cơ hội chính trị xét lại"
(Báo cáo số 1500/20/CB của Tổng cục 2)
Bản tin riêng về địch móc nối vào Viện 108
“Ý
đồ của CIA chống phá ta qua ngành y tế rất thâm độc và nguy hiểm. Chúng
đã sớm móc nối vào viện 108, CIA đã móc nối được một số giáo sư, và
giao cho “ Mặt trận dân chủ cấp tiến” chỉ đạo nhóm này. Đặc biệt là khi
chủ tịch Lê Đức Anh bị ốm, CIA đã chỉ đạo Mặt trận dân chủ cấp tiến ráo
riết hoạt động chỉ đạo chặt chẽ lực lượng của chúng tại viện 108 trong
quá trình điều trị cho chủ tịch Lê Đức Anh. Đáng chú ý gần đây, phát
hiện được Phạm Song (nguyên Bộ trưởng Y Tế) có quan hệ với lực lượng cấp
tiến. Tuần qua, hai lần Phạm Song gặp một tên trong ban lãnh đạo Mặt
trận cấp tiến, tên này là bác sỹ lâu năm và là người của Giáp, y đang
trực tiếp chỉ đạo lực lượng của Mặt trận dân chủ cấp tiến tại viện 108
trong việc điều trị cho chủ tịch Lê Đức Anh. Gần đây phát hiện chúng đã
đặt thiết bị nghe trộm. Ngay trong xe của chủ tịch Lê Đức Anh đã có dấu
hiệu đặt thiết bị nghe trộm.
(Bản tin số 185/96/TR ngày 30/12/96)
* * *
Các
vấn đề của Tổng cục 2 còn nhiều như tổ chức thu thập tài liệu và theo
dõi cán bộ cao cấp, tổ chức cơ sở làm tài liệu giả, vu cáo nhiều đồng
chí, trước đây hoạt động cách mạng, là đã làm tay sai cho địch. Nguyễn
Quang Vịnh (người của Tổng cục 2) đã bán kế hoạch phòng thủ bầu trời cho
nước ngoài. Kế (người của Tổng cục 2) làm parabol để thu tiền bất hợp
pháp; gian lận trong thuế giá trị gia tăng. Người của Tổng cục 2 còn đưa
lên mạng Internet nói xấu cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Đặc biệt,
Tổng cục 2 đã sử dụng một số người phức tạp, cài cắm người vào các cơ
quan Đảng, Nhà nước để lấy tin, tung tin, bịa đặt, lừa dối Đảng v. v…
Cán bộ tình báo quân sự còn cấp giấy chứng minh quân báo cho tay chân
Năm Cam hoạt động, và liên hệ chặt chẽ với tay chân Năm Cam (báo chí đã
đưa tin nhưng bị ém).
Khó mà tưởng tượng được những hành động
phạm pháp nghiêm trọng ấy lại diễn ra trong một cơ quan làm nhiệm vụ
tình báo quân sự cấp chiến lược. Cơ quan tình báo mà lại bịa ra một cơ
sở đặc tình “ma” để lừa dối, vu khống chính trị cán bộ cấp cao từ Tổng
bí thư, uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng, Đại tướng, Thượng tướng, uỷ
viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng … là phạm tội ngang với tội phản bội Tổ
Quốc, phản bội Đảng. Qua những vụ việc nêu trên, những người lãnh đạo
Tổng cục 2 như Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, đã phản bội truyền thống tốt
đẹp của tình báo quân đội trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Không thể viện lý do trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ Tổng cục 2
có đóng góp và truyền thông tốt đẹp mà giảm tội cho Vũ Chính, Nguyễn
Chí Vịnh, những người đã bịa ra cơ sở đặc tình "ma" T4 và các vụ sai
phạm khác.
Những bản tin mà Tổng cục 2 đưa ra là nhằm vu khống
chính trị, lừa dối, chia rẽ nội bộ Đảng, phá hoại Đảng, Nhà nước và quân
đội, gây sự phân tâm, lũng đoạn tinh thần cán bộ đảng viên và nhân dân,
vi phạm nghiêm trọng pháp luật, nguyên tắc kỷ luật đảng, tạo ra oan
trái và đau khổ cho nhiều đồng chí. Với những bản tin đó mà tôi không
thể trích dẫn hết, đã buộc cấp lãnh đạo cao nhất điều tra, thẩm tra, ít
nhất là 10 vụ gây ra rất nhiều phức tạp.
Đó là hành động phá hoại
đảng, phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa, phá hoại Tổ Quốc. Đó không phải
là chuyện riêng nội bộ Tổng cục 2, nội bộ Bộ quốc phòng. Đó là vấn đề
của toàn Đảng, của pháp luật, của chế độ xã hội chủ nghĩa, liên quan đến
an ninh của Tổ Quốc, đến đại đoàn kết dân tộc. Đó chính là nguy cơ làm
mất sự ổn định chính trị, đã gây hậu quả nghiêm trọng, và nếu không kiên
quyết xử lý thì sẽ dẫn đến mất ổn định chính trị ngày càng tăng, như
một ung nhọt làm tan rã Đảng và chế độ.
Còn nói rằng CIA đang tập
trung đánh vào Tổng cục 2, cho nên cần giảm tội là một luận điệu nhằm
bao che cho Tổng cục 2. Không thể đồng tình với luận điểm đó, và đó cũng
là thủ đoạn của Tổng cục 2 đã làm trước đây khi bắt đầu phát hiện ra vụ
T4. Luận điệu nói rằng công an đánh vào Tổng cục 2 cũng là luận điệu
giả dối. Rõ ràng, tính chất của vụ T4 là thuộc là thuộc về động cơ và
quan điểm chính trị sai lầm, chứ không phải chỉ có thiếu xót trong công
tác quản lý giáo dục cán bộ, nhân viên. Do đó, nếu chỉ thi hành kỷ luật ở
mức cảnh cáo là không đúng.
* * *
IV. Nghị định 96/CP và sự lộng quyền của Tổng cục 2.
Trước
đây Cục 2 là một cục tình báo quân sự. Sau cuộc " lập công" đầy tội ác
với vụ Sáu Sứ và sau những tin giật gân, bịa đặt do cục 2 đưa ra để tự
đề cao và để bày tỏ Cục 2 là "người trung thành bảo vệ lãnh đạo nhất”.
Một đồng chí lãnh đạo cấp cao khoá 7 nói: ”Công an chả nắm được gì, chỉ
có Cục 2 là nắm được tình hình". Lãnh đạo Cục 2 kiến nghị nâng Cục 2
thành Tổng cục 2., Do nhiều thủ thuật khôn khéo, pháp lệnh tình báo của
thường vụ quốc hội ra đời. Tiếp đó là nghị định 96/CP của chính phủ.
Trong khoá 7, đồng chí Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị và sau đó
được bầu làm Chủ tịch nước, phụ trách cả An ninh, Quốc phòng và Đối
ngoại. Về lãnh đạo quân đội, lúc đầu có ý kiến đề xuất đồng chí Lê Đức
Anh làm bí thư Đảng uỷ quân sự Trung ương. Nhưng Tổng cục Chính trị
không đồng ý, vì không đúng với cơ chế Ban Chấp hành Trung ương đã ban
hành. Do đó, đồng chí Lê Đức Anh lãnh chức Phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ
quân sự trung ương. Đồng chí Đoàn Khuê, Bộ trưởng quốc phòng làm phó bí
thư. Đồng chí Đỗ Mười, theo cơ chế, làm bí thư Đảng uỷ quân sự trung
ương, nhưng trên thực tế, mọi việc chỉ đạo chung và cả điều hành cụ thể
công tác quân sự, quốc phòng là đồng chí Lê Đức Anh. Được sự chỉ đạo của
đồng chí Lê Đức Anh, chủ tịch nước, phó bí thư thứ nhất Đảng uỷ quân sự
trung ương, Pháp lệnh tình báo và nghị định 96/CP đã được soạn thảo và
chuyển qua quốc hội và chính phủ. Pháp lệnh tình báo do đồng chí Nông
Đức Mạnh, thay mặt Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ký ngày 14/12/96. Nghị định
96/ CP do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký ngày 11/9/1997. Đồng chí Võ Văn Kiệt
sau này có nói: "Tôi suy nghĩ mãi hơn 6 tháng mới ký nghị định 96/ CP
".
Khoá 7, tôi là uỷ viên trung ương, uỷ viên Đảng uỷ quân sự
trung ương, mà hoàn toàn không được biết về nghị định 96/ CP. Tôi và
nhiều đồng chí thông cảm với đồng chí Võ Văn Kiệt. Có lẽ đồng chí Võ Văn
Kiệt cũng cảm nhận một số điều không đúng của nghị định 96/ CP, nghị
định về tình báo Quốc Phòng, cho nên đồng chí Võ Văn Kiệt thật sự có đắn
đo. Tôi cũng thông cảm với đồng chí Nông Đức Mạnh, lúc đó là Chủ tịch
quốc hội. Dưới đây, tôi trình bày một số ý kiến về pháp lệnh tình báo và
nghị định 96/CP về tình báo quốc phòng, chủ yếu là về nghị định 96/CP :
Điều 2, chương 1 của pháp lệnh tình báo xác định:
"Lực
lượng tình báo Việt nam là một trong những lực lượng trọng yếu, tin cậy
của Đảng và nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi
mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản
lý thống nhất của Chính phủ (gọi tắt là lãnh đạo cấp cao của Đảng và
Nhà nước)
Điều 14, chương III quy định:
"Thủ
trưởng tình báo thuộc quốc phòng trực tiếp điều hành công tác của lực
lượng Tình báo Bộ Quốc phòng, chịu trách nhiệm trước Bộ quốc phòng và
lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước về mọi mặt trong lĩnh vực công tác
của lực lượng tình báo trực thuộc"
Còn nghị định 96/CP của Thủ tướng chính phủ ở điều I chương I ghi rõ:
"Lực
lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng là lực lượng chuyên trách về công
tác tình báo chiến lược hoạt động trên các lĩnh vực tình báo chính trị,
quốc phòng, An ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ
môi trường, văn hoá xã hội, thu thập và xử lý tin liên quan đến lợi ích
quan trọng, sống còn của CHXHCNVN, góp phần tham mưu cho Đảng và Nhà
nước hoạch định đường lối, sách lược đối nội, đối ngoại và các chủ
trương, kế hoạch, biện pháp, quyết sách để thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược …”
Điều 11, chương 2 của nghị định 96/CP xác định:
“Đối
tượng và mục tiêu của lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng là những
nơi có tin tức, tài liệu liên quan đến Nước CHXHCNVN. Trong đó đặc biệt
chú ý đến các quốc gia, tổ chức và các cá nhân ở trong nước và ngoài
nước có âm mưu hoạt động, đe doạ chống lại Đảng CSVN, Nhà Nước CHXHCNVN"
Điều 11, chương 2 của nghị định 96/CP lại giao nhiệm vụ và các quyền hạn:
"Tổng
cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trình lên thường vụ Bộ Chính trị, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng nhiệm vụ và kế hoạch trọng yếu dài hạn và hàng
năm của công tác tình báo chiến lược"
Điều 15, chương 2:
"Tổng
cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng được biệt phái cán bộ đến các cơ quan
Nhà nước và các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội, khoa học kỹ
thuật ở trong nước, và ngoài nước có liên quan để thực hiện nhiệm vụ
tình báo"
Điều 18, chương 2:
"Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng được thiết lập kênh thông tin liên lạc đặc biệt với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước"
Điều 20, chương 2:
"Tổng
cục tình báo được sử dụng các biện pháp tình báo, phương tiện kỹ thuật
nghiệp vụ, vũ khí và công cụ phục vụ cho nhiệm vụ đặc biệt của tình báo"
Điều 21, chương 2:
"Tổng
cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử
dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu hoặc các giấy tờ giao
dịch của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức kinh
tế, tổ chức xã hội, …"
Trong
việc quy định các mối quan hệ, tuy có nói về mối quan hệ chỉ huy của Bộ
Quốc phòng với Tổng cục tình báo, nhưng điều 30 chương 4 lại nói:
"Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước đối với lực lượng tình báo thuộc Bộ Quốc
phòng"
Điều 30, chương 4:
"Tổng
cục trưởng Tổng cục tình báo chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng và lãnh đạo cấp cao của Đảng và nhà nước về mọi lĩnh vực công tác
của lực lượng tình báo thuộc Bộ Quốc phòng"
Còn về tài chính, ngân sách thì như thế nào ?
Điều 8, chương I quy định:
"Kinh
phí đặc biệt ngoài ngân sách Quốc phòng do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đề
nghị Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Bộ tài chính cấp trực tiếp cho
Tổng cục tình báo thuộc Bộ Quốc phòng"
Qua nội dung của nghị định 96/CP có thể nhận ra điều gì ?
Trong
cơ chế nước ta, ai cũng hiểu pháp lệnh thường không phải do Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội soạn thảo. Nghị định cũng thường không phải do Văn
phòng Thủ tướng soạn thảo mà do "cơ quan chủ quản" đề tài ấy soạn ra.
Nhưng kẻ soạn ra pháp lệnh Tình báo và Nghị định 96/CP đã khéo léo, bắt đầu từ chỗ xác định "Lực
lượng tình báo Việt nam là một trong những lực lượng trọng yếu, tin cậy
của Đảng và nhà nước, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi
mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản
lý thống nhất của Chính phủ (gọi tắt là lãnh đạo cấp cao của Đảng và
Nhà nước)
Xác định như vậy nghe ra thì rất lập trường, đề
cao sự lãnh đạo tuyệt đối, tập trung, thống nhất về mọi mặt của Đảng.
Nhưng giả định nếu ta đưa ra một khái niệm tương tự : “Lực lượng hậu cần
kỹ thuật (hoặc lực lượng pháo binh, lực lượng phòng không khong quân…)
đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản
Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản lý thống nhất của
Chính phủ” thì nghe có được không ?
Lực lượng vũ trang nhân dân
Việt Nam nói chung đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt
của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của chủ tịch nước, sự quản lý
thống nhất của Chính phủ là hoàn toàn đúng. Thế nhưng lực lượng vũ trang
nhân dân nói chung và từng bộ phận của lực lượng ấy là hai chủ thể khác
nhau trước luật pháp. Tổng cục 2 là một bộ phận của Quân đội nhân dân,
nhưng nó không phải là toàn thể Quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân
Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý thống
nhất của Chính phủ, nhưng khi xác định cơ chế và các mối quan hệ lãnh
đạo chỉ huy, của từng bộ phận của Quân đội nhân dân, thì xác định như
vậy là không đúng, không chuẩn, không rõ ràng. Những kẻ soạn thảo đã cố
tình đưa ra một khái niệm lẫn lộn, đánh đồng Bộ Quốc phòng và Tổng cục
tình báo, đánh đồng sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ đối với Bộ quốc phòng và Tông
cục tình báo. Sự pháp quy đó đã bị lợi dụng dẫn đến một sự hiểu lầm:
“Tổng cục tình báo cũng đứng dưới sự lãnh đạo tuyệt đối trực tiếp về mọi
mặt của lãnh đạo cấp cao, ngang hàng với Bộ quốc phòng". Đó là một kẽ
hở rất lớn dẫn đến sự lộng quyền.
Để cụ thể hoá pháp lệnh tình
báo, những người soạn thảo đã đưa vào nghị định của Thủ tướng Chính phủ
những quyền hạn rất rộng cho Tổng cục tình báo Bộ quốc phòng, đặc biệt
là ở điều I chương 1.
An ninh Quốc gia là một lĩnh vực rộng lớn
và tổng hợp, cho nên công tác tình báo để đảm bảo an ninh quốc gia ở bất
kỳ nước nào cũng có nội dung rộng lớn bao gồm toàn diện các lĩnh vực:
tình báo chính trị, tình báo tài chính, tình báo thương mại, tình báo
khoa học công nghệ, tình báo thông tin, tình báo văn hoá, tình báo ngoại
giao, tình báo bảo đảm an ninh nội bộ, công tác phản gián và sử dụng
các hình thức tình báo để thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể.
Để thực
hiện nhiệm vụ tình báo chiến lược tổng hợp đó, mỗi cơ quan, mỗi ngành
có chức năng, nhiệm vụ, đối tượng cụ thể, và riêng của mình. Nhưng điều 1
Chương I xác định:
"Lực lượng tình báo thuộc Bộ quốc phòng
là lực lượng chuyên trách về công tác tình báo chiến lược hoạt động
trên các lĩnh vực tình báo chính trị, quốc phòng, An ninh, đối ngoại,
kinh tế, khoa học kỹ thuật, công nghệ môi trường, văn hoá xã hội …"
là không đúng. Tình báo Bộ quốc phòng làm nhiệm vụ tình báo quân sự,
thực hiện các công tác tình báo để đảm bảo các nhiệm vụ của Bộ quốc
phòng. Đương nhiên nhiệm vụ Bộ quốc phòng có liên quan đến các ngành,
các lĩnh vực, nhưng tình báo Bộ quốc phòng không phải là toàn bộ các
công tác An ninh Quốc gia.
Tình báo quân sự cần có sự kết hợp
chặt chẽ với tình báo các lĩnh vực khác, nhưng nó không được bao trùm,
nằm lên trên, ôm đồm, mở rộng ra toàn diện các lĩnh vực. Nó chỉ là và phải là một lực lượng Tình báo chiến lược chuyên trách về quân sự và các nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng. Xin nhấn mạnh chữ một. Phải xác định đúng khung phạm vi chức năng nhiệm vụ của nó.
Từ
nhiệm vụ quá rộng bao trùm lên toàn diện các lĩnh vực, cho nên điều 11,
chương 2 xác định đối tượng của Tình báo quân sự không chặt chẽ:
"Đối
tượng và mục tiêu của lực lượng Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng là những
nơi có tin tức, có tài liệu liên quan đến nước CHXHCNVN, trong đó đặc
biệt chú ý đén các Quốc gia, tổ chức và cá nhân ở trong nước và ngoài
nước có âm mưu hoạt đông đe doạ, chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
Nước CHXHCNVN". Với điều 11, chương 2 đó thì những nơi mà Tổng
cục 2 cho rằng có tin tức, tài liệu liên quan đến nước CHXHCNVN và "đặc
biệt chú ý đến các tổ chức và cá nhân trong nước hoạt động đe doạ chống
lại Đảng, Nhà Nước" là Tổng cục có quyền sục vào, có quyền đưa tin, có
quyền gài người vào tất cả các địa phương (không trừ huyện nào, tỉnh
nào, không trừ một cơ quan nào của Đảng, Nhà Nước, các tổ chức chính
trị, xã hội, văn hoá, kinh tế, v. v., như Tổng cục 2 đã làm lâu nay.
Cũng từ đó Nghị định 96/CP quy định "Tổng
cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trình lên Thường vụ Bộ Chính trị, Ban
chấp hành Trung ương Đảng nhiệm vụ và các kế hoạch trọng yếu dài hạn và
hàng năm của công tác Tình báo chiến lược".
Xin lưu
ý: cụm từ "của công tác tình báo chiến lược" nghĩa là công tác Tình báo
chiến lược nói chung bao trùm. Thế Bộ Công An làm gì ? Thế Đảng uỷ quân
sự Trung ương làm gì? Đề ra như thế là cho Tổng cục 2 qua mặt cả Đảng uỷ
quân sự Trung ương, lên trên cả bộ Công An.
Hơn nữa, Nghị định 96/CP xác định: "Tổng cục Tình báo Bộ Quốc phòng dược thiết lập kênh thông tin liên lạc với lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà Nước. " "Tổng
cục Tình báo thuộc Bộ Quốc phòng trong trường hợp cần thiết được sử
dụng danh nghĩa và phương tiện làm việc, con dấu các giấy tờ giao dịch
của cơ quan Nhà Nước, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội …"
Ngân sách Quốc phòng được Nhà Nước
giao cho Bộ Quốc phòng mà Tổng cục 2 là một cơ quan trực thuộc Bộ Quốc
phòng. VậyTổng cục 2 có nhiệm vụ gì đặc biệt ngoài Quốc phòng mà Bộ
trưởng Quốc phòng phải đề nghị Thủ tướng phê duyệt và Bộ Tài chính trực
tiếp cấp? Điều 20, chương 14 và nhiều điều khác đã để lộ ý định của
người soạn thảo đưa ra pháp l?nh này là : Biến Tổng cục 2 thành một cơ
quan Tình báo (như kiểu CIA của Mỹ), trùm lên cả cơ quan Tình báo của Bộ
Công An, Ban bảo vệ chính trị nội bộ, Cục bảo vệ, Tổng cục chính trị,
làm cả đối ngoại và nội bộ.
Công tác bảo vệ nội bộ là do Ban bảo
vệ chính trị phụ trách. Công tác An ninh bao gồm cả công tác phản gián
phải tập trung vào Bộ Công An, tất nhiên có sự kết hợp giữa thế trận An
ninh nhân dân và thế trận Quốc phòng toàn dân. Nhưng không thể tập trung
quyền hạn vào Tổng cục 2, để Tổng cục 2 bao trùm lên trên.
Lợi
dụng Nghị định 96/CP, Tổng cục 2 đã có sự lộng quỳên nghiêm trọng, sự
thao túng nghiêm trọng, phá hoại dân chủ và phá hoại đoàn kết nôi bộ,
gây chia rẽ và bè phái rất nghiêm trọng trong Đảng. Tổng cục 2 muốn vu
khống ai thì vu khống, muốn trừng trị ai thì bày chuyện trừng trị, muốn
gài người vào cơ quan nào thì gài, tổ chức kinh doanh tràn lan, lạm dụng
các hoạt động gọi là Tình báo để tiêu tiền, thậm chí tạo ra " cơ sở đặc
tình" không có thật để tiêu tiền ("tiền cho T4 mà", ít nhất là 81. 000
đô la, đó là mới phát hiện, còn chưa kể kiểm tra hết được).
Qua việc nắm tình hình khi tôi làm nhiệm vụ, tôi thấy mấy điểm:
- Quyền hạn Tổng cục 2 quá rộng.
- Người Tổng cục 2 sử dụng có cả bọn xấu và có cả các phần tử địch xen vào.
- Nguyên
tắc, thủ đoạn, nề nếp làm việc không đúng quy chế, quy định, tin từc
không có phối kiểm, đưa gửi tràn lan. Trong công tác Đảng uỷ thì không
thực hiện đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể. Thủ trưởng Tổng cục độc
đoán, chuyên quyền.
- Người của Tổng cục 2 cũng đưa lên mạng nói xấu lãnh đạo Đảng.
- Tài chính bất minh.
Vì vậy tôi đề nghị :
-
Phải kiểm tra toàn diện Tổng cục 2 cả về chức năng, nhiệm vụ, phương
thức hoạt động, nề nếp làm việc, hệ lực lượng bao gồm lực lượng cài cắm ở
các cơ quan và tài chính.
- Chấm dứt việc cài người của Tổng cục 2 vào các cơ quan Đảng, Nhà Nước.
-
Phải thật sự chấn chỉnh Tổng cục 2 cả tổ chức, cán bộ, lực lượng,
nguyên tắc làm việc, cả chính quyền và Đảng, tài chính, cơ sở vật chất.
Không thể để lại ở Tổng cục 2 những cán bộ lãnh đạo vu khống chính trị
đã thoái hoá biến chất.
- Quốc hội và Chính phủ phải xem xét lại pháp lệnh Tình báo và nghị định 96/CP, sửa đổi hoặc huỷ Nghị định 96/CP.
Cuối cùng, tôi xin nhắc lại: Đây là một vụ án chính trị cực kỳ nghiêm trọng,
còn nghiêm trọng hơn gấp nhiều lần vụ Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh, liên
quan đến mất còn của chế độ XHCN và Tổ Quốc, đến sinh mệnh chính trị, uy
tín, hạnh phúc của rất nhiều đồng chí, cả những đồng chí lão thành.
Là
một đồng chí được tham gia sự lãnh đạo của Đảng 15 năm, tham gia lãnh
đạo công tác tư tưởng, công tác tổ chức, công tác bảo vệ chính trị nội
bộ Quân đội hơn 20 năm, tôi yêu cầu:
- Đồng
chí Tổng bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra Trung ương,
Ban chỉ đạo liên ngành phải tiếp tục làm sâu hơn, kỹ hơn, đến nơi đến
chốn tính chất nghiêm trọng của vụ T4, vụ Sáu Sứ, vụ đồng chí Võ Viết
Thanh và các vụ liên quan
- Thông báo
cho các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm
tra và các đồng chí Trung ương các khoá. Vì vụ này, kể từ vụ Sáu Sứ đã
diễn ra từ khoá 6. Khoá 6 đã bàn giao cho khoá 7, khoá 8 đã bàn giao cho
khoá 9.
- Báo cáo với Ban Chấp hành
Trung ương khoá 9 vụ Sáu Sứ, T4, và các vấn đề của Tổng cục 2. Hồi còn
tham gia Trung ương, có lần tôi đã phát biểu : Bộ Chính trị không được
phép đặt mình cao hơn Trung ương. Mọi việc quan trọng trong Đảng đều
phải báo cáo với Trung ương để Trung ương thực hiện quyền hạn và chịu
trách nhiệm trước toàn Đảng. Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh
đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội.
- Vấn
đề này là vấn đề của chế độ, của Tổ Quốc, của dân tộc, của Nhà Nước.
Phải xử lý đúng pháp luật của Nhà Nước, đúng theo tinh thần mà các hội
nghị Trung ương đã xác định: Đối với pháp luật thì không trừ một ai, dù
người đó ở cương vị gì. Không được xử lý nội bộ những việc liên quan đến
pháp luật. Nói đi đôi với làm.
- Chúng tôi thấy có
hiện tượng bao che, ngăn cản làm rõ sự thật, bao che, ngăn cản việc xử
lý nghiêm minh các vụ vu khống chính trị do Tổng cục 2 thực hiện,
từ vụ Sáu Sứ vu khống đồng chí Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trần Văn Trà,
vụ vu khống chính trị đòng chí Trương Tấn Sang, đồng chí Nguyễn Khánh
Toàn, đồng chí Phan Văn Khải, Phan Diễn, Trương Vinh Trọng, Võ Trần Chí,
Bùi Thiện Ngộ, Phạm Văn Đồng, Trần Tiến Cung, đồng chí Nguyễn Văn
Thắng, thường vụ Quận 6 Thành phố Hồ Chí Minh, vụ vu khống đồng chí Võ
Thị Thắng, vụ vu khống đồng chí Phạm Chánh Trực, Lê Văn Dũng, Lê Khả
Phiêu, Phan Trung Kiên vv..., các vụ tung tin về đồng chí Võ Văn Kiệt,
Nguyễn Văn An, Trần Đức Lương, Mai Chí Thọ, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Minh
Triết, Phạm Gia Khiêm, Nguyễn Huy Chương, Nguyễn Chơn, Nguyễn Nam Khánh,
Tô Ký, Đồng Văn Cống. vv., các vụ làm tài liệu giả khác, vụ quân báo
liên quan đến bè lũ Năm Cam.
Không phải chỉ dừng lại ở chỗ minh oan.
Căn cứ vào luật pháp, điều lệ, nguyên tắc Đảng, quyền dân chủ và quyên kiểm tra của đảng viên tôi yêu cầu phải làm rõ tính chất của tội phạm trừng trị nghiêm khắc cả những kẻ phạm tội và những kẻ bao che ngăn cản bất kể người đó là ai.
Tôi nghĩ rằng nếu
đồng chí Tổng bí thư, Nguyên Tổng bí thư, các Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ
viên Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra, Uỷ viên Đảng uỷ quân sự Trung ương,
các đồng chí nguyên cố vấn, đã biết các vụ này mà muốn cho qua, làm
chiếu lệ cũng là bao che, ngăn cản, nói mà không làm.
- Không được viện cớ giữ ổn định mà không kiên quyết làm.
Những vụ án vu khống chính trị do Tổng cục 2 gây nên đã làm mất ổn định
chính trị, tạo ra nguy cơ tan rã đảng và mất độc lập chủ quyền, mất chế
độ xã hội chủ nghĩa. Phải kiên quyết làm rõ và xử lý nghiêm minh thì
mới củng cố và giữ vững ổn định. Nếu không, chính là càng cho mất ổn
định thêm. Hiện nay đã có ý kiến cho rằng vin cớ giữ ổn định để không
kiên quyết làm tức là bao che ngăn cản.
Xin cảm ơn. Xin chúc các đồng chí Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban kiểm tra sức khỏe.
Xin
chúc Trung ương và các đồng chí làm đúng pháp luật, điều lệ và các nghị
quyết của Đảng, thực sự lắng nghe ý kiến của đảng viên nói chung và các
cán bộ hiểu biết có liên quan.
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh